Trong khi cả nước đang bối rối trước tai họa rình rập của coronavirus thì có một tai họa còn khủng khiếp hơn nhiều, một cái chết được báo trước đang xảy ra, tuy âm thầm nhưng lừng lững tiến tới ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

hạn mặn, ĐBSCL
Nhiều diện tích lúa tại tỉnh Long An khô, thiếu nước do hạn, mặn. (Ảnh: baolongan.vn)

Nếu được hỏi nguy cơ lớn nhất cho sự tồn vong của ĐBSCL là gì, tôi sẽ không ngần ngại trả lời: nước, nước, nước, và nước.

Vấn đề nước đầu tiên ở ĐBSCL là ô nhiễm nguồn nước mặt – cái giá phải trả cho việc sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu quá mức để duy trì lúa vụ 3 và tăng sản lượng nông nghiệp. Thêm vào đó, ô nhiễm từ hoạt động nuôi trồng và chế biến thủy sản làm tình trạng ô nhiễm càng trở nên nghiêm trọng. Trước đây, ở đồng bằng hầu như trẻ em nào cũng biết bơi, bây giờ đến nhảy xuống sông tắm còn không dám vì sợ ô nhiễm.

Vấn đề nước thứ hai ở ĐBSCL là việc khai thác nước ngầm quá mức, một mặt là do nước mặt quá ô nhiễm nên không sử dụng được, mặt khác vì tình trạng quản lý yếu kém nguồn tài nguyên “cha chung không ai khóc” này. Khai thác nước ngầm quá mức, cùng với áp lực của các công trình xây dựng và hạ tầng, khiến nền đất bị sụt lún nghiêm trọng, có nơi lên tới 2-3 cm mỗi năm. Nếu tình trạng này tiếp diễn, chỉ trong 20-30 năm nữa, những nơi này sẽ tụt xuống dưới mực nước biển.

Vấn đề nước thứ ba là sự suy giảm về cả khối lượng và chất lượng nước do mạng lưới chằng chịt hàng trăm đập thủy điện ở thượng nguồn gây ra. Thiếu nước ở ĐBSCL – điều chúng ta đang chứng kiến mấy tuần qua – đã ngày càng trở nên nghiêm trọng trong mùa khô. Mặc dù trong mùa mưa, các đập của Trung Quốc chỉ chiếm khoảng 7% lượng nước trong toàn bộ hệ thống nhưng vào mùa khô, tỷ lệ này có thể lên tới 40-50%, khiến cho lượng nước ở hạ nguồn bị phụ thuộc rất lớn vào việc vận hành các đập của Trung Quốc. Bên cạnh đó, một lượng lớn phù sa và cát bị kìm giữ bởi các đập thượng nguồn – ước lượng hiện nay đã lên tới 50% – cũng làm ĐBSCL mất đi nguyên liệu để bồi đắp cho đồng bằng. Điều này cùng với nạn khai thác cát bừa bãi và vô độ trong nhiều năm khiến tình trạng mất đất và sạt lở ven biển trở nên hết sức trầm trọng.

ĐBSCL
Độ cao so với mặt nước biển của ĐBSCL theo các kịch bản: khai thác nước ngầm, khai thác cát, bổ sung phù sa và nước biển dâng. Vùng màu xanh lá biểu thị độ cao khoảng từ 0,5-1,5m so với mực nước biển, vùng màu xanh dương biểu thị độ cao -0,5m. (Nguồn: iopscience.iop.org) (1)

Vấn đề nước thứ tư là mực nước biển dâng và nhập mặn do biến đổi khí hậu. Hiện nay, mỗi năm nước biển dâng trung bình khoảng 3-4 mm. Như vậy, mặc dù không phủ nhận tầm quan trọng của hiện tượng này, song cần nhớ là mức sụt lún do khai thác nước ngầm quá mức và do các công trình xây dựng và hạ tầng gây ra có thể còn cao hơn tới 10 lần. Hơn nữa, việc nhập mặn tuy bất lợi cho lúa nhưng lại có lợi cho tôm, cá và các hoạt động nuôi trồng thủy sản khác vốn đem lại lợi ích kinh tế cao hơn nhiều lần so với canh tác lúa 3 vụ, trong khi không gây biến đổi và tác hại môi trường.

ĐBSCL – nơi cư ngụ của hơn 20 triệu người Việt Nam – đang chết dần chết mòn. Nguyên nhân chính không phải vì biến đổi khí hậu hay do các con đập thượng nguồn, mà vì sự hội tụ và tích tụ của nhiều bất cập chính sách và tập quán nông nghiệp trong suốt qua ba thập kỷ gần đây. Nếu không đảo ngược tình trạng này, viễn cảnh tan rã của ĐBSCL chỉ còn là vấn đề thời gian.

Bạn đã bao giờ thử hình dung khi ấy đất nước Việt Nam sẽ như thế nào và con cháu chúng ta sẽ sống còn thế nào không?

TS. Vũ Thành Tự Anh

(Giám đốc Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright)

Chú thích:

  1. https://iopscience.iop.org/article/10.1088/2515-7620/ab5e21/pdf

Đăng theo Facebook Vu Thanh Tu Anh với sự đồng ý của tác giả. Vui lòng đọc bài gốc tại đây.

Xem thêm: