Mô hình trường học mới tại Việt Nam (gọi tắt là VNEN) xuất phát từ mô hình trường học mới (EN) được thực hiện thành công ở Colombia. EN là chương trình được các nhà giáo dục và chuyên gia hàng đầu hỗ trợ phát triển.

Chính mô hình EN này đã giúp Colombia từ một nước có nền giáo dục lạc hậu thành đất nước có nền giáo dục tốt nhất châu Mỹ La Tinh, tiếp cận được các nền giáo dục tiên tiến.

Mô hình EN biến nền giáo dục lạc hậu Colombia thành giáo dục hàng đầu khu vực

Năm 1982, Hiệp hội Những người trồng cà phê Colombia (FNC) đã bảo trợ cho dự án EN nhằm mục đích giúp đỡ tất cả các trẻ em ở khu vực nông thôn Colombia được tiếp cận với giáo dục tiểu học.

Những kết quả từ giáo dục Colombia đã thu hút được sự quan tâm của những nhà giáo dục quốc tế.

Báo New York Times ngày 28/2/2015 có bài viết với tựa đề “Hãy biến nhà trường trở thành nền dân chủ” của tác giả David L. Kirp.

Tiếng vang từ chương trình EN đã thôi thúc tác giả đến với ngôi trường vùng nông thôn ở Colombia xem các học sinh nơi đây học tập thế nào. Khác với các lớp học truyền thống là học sinh đều ngồi quay mặt lên bảng im lặng nghe thầy cô giảng bài; học sinh chương trình EN ngồi thành từng nhóm lắng nghe giáo viên giảng rồi chia sẻ trao đổi với nhau.

Các học sinh cũng chia sẻ cách làm bài hay suy nghĩ của mình, sẵn lòng giúp đỡ các học sinh chưa hiểu hay khó khăn khi giải bài tập.

Bên ngoài lớp học chính là kết quả học tập của học sinh, đó là những luống rau, vườn cây do chính tay các học sinh trồng, bởi mô hình EN là học gắn liền ngay với thực hành, các học sinh biết cách áp dụng ngay những điều mình đã học vào cuộc sống hàng ngày.

Các nghiên cứu cho thấy Colombia là quốc gia duy nhất giáo dục ở nông thôn còn tốt hơn ở đô thị, và tốt nhất ở Mỹ La Tinh, đó là do kết quả từ mô hình EN mang lại. Trong khi trẻ em nông thôn nghèo ở các nước khác thường bỏ học sau 1-2 năm vì không thấy liên hệ nào giữa học và hành, học nhưng không biết học để làm gì, thì mô hình EN ở Colombia, học gắn liền với thực tiễn, học sinh áp dụng ngay những điều mình học vào thực tiễn cuộc sống thông qua các hoạt động thường ngày.

Kiến thức được học gắn liền với công việc ở nhà, ở trường. Hoạt động giáo dục trẻ em gần như liên quan đến toàn bộ cộng đồng.

Mô hình EN nhân rộng sang 17 nước, trong đó có Việt Nam

Trước lợi ích mang lại từ mô hình EN, Liên Hiệp Quốc đã quốc tế hóa mô hình này nhằm nhân rộng sang nhiều nước khác trên thế giới. Các tổ chức UNESCO, Ngân hàng Thế giới coi mô hình EN có chất lượng tốt, là giải pháp giáo dục có hiệu quả với mục tiêu, mục đích rõ ràng, đối tượng phù hợp.

Năm 2011, ngành giáo dục Việt Nam bắt đầu thí điểm trước mô hình này tại một số trường, EN khi vào Việt Nam được gọi là Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN).

Quỹ Hỗ trợ toàn cầu về giáo dục của Liên Hiệp Quốc đã tài trợ không hoàn lại 84,6 triệu USD cho dự án trong giai đoạn 2011-2015.

Năm học đầu tiên áp dụng thí điểm mô hình VNEN này là 2011-2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai tại 24 trường học thuộc 12 huyện ở 6 tỉnh: Hà Giang, Lào Cai, Hòa Bình, Khánh Hòa, Kon Tum và Đắk Lắk.

Tháng 10/2013, các lãnh đạo ngành giáo dục Việt Nam đến tham quan và tìm hiểu mô hình EN ở Caldas (Colombia), và quyết định tiếp tục mở rộng thí điểm mô hình này.

Không chỉ có Việt Nam, mô hình trường học mới EN đang được nhân rộng ra 17 nước khác trên thế giới.

Mô hình VNEN ở Việt Nam

Phương pháp giáo dục truyền thống của Việt Nam là giáo viên dạy và giảng giải sẵn, còn học sinh theo đó mà làm. Theo cách này, học sinh học tập một cách thụ động, bị áp đặt phải theo cái có sẵn, khó phát huy điểm mạnh của học sinh.

Nhưng với mô hình VNEN, giáo viên đặt vấn đề đưa ra các tình huống để học sinh tự xử lý và tìm phương cách giải quyết vấn đề. Học sinh ngồi thành từng nhóm chia sẻ, thảo luận tìm cách giải đáp, nếu thấy khó khăn hay còn thiếu những gì thì trao đổi với giáo viên, giáo viên bổ sung thêm các dữ kiện, gợi ý để học sinh tự đưa ra lời giải. Phương cách này giúp học sinh học tập chủ động, phát huy được điểm mạnh của từng học sinh, giúp phát triển tư duy cũng như kỹ năng giải quyết vấn đề.

Năm học 2015-2016 đã có 2.365 trường tiểu học và hơn 1.000 trường THCS tổ chức thực hiện mô hình này. Tuy nhiên, theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, kinh phí dự án chỉ bảo đảm hỗ trợ cho 1.447 trường.

Hiện nay, có nhiều ý kiến trái chiều của giáo viên và phụ huynh về chương trình này. Nhiều địa phương đã ngưng nhân rộng mô hình này, trong khi nhiều địa phương dù không được tài trợ dự án của chương trình, nhưng được phụ huynh ủng hộ và tiếp tục nhân rộng mô hình đến các trường khác.

Các lý do đưa ra để ngưng mô hình VNEN

Các giáo viên đưa ra lý do chủ yếu để không nhân rộng mô hình này như: học sinh chỉ ngồi chỉ nói chuyện mà không nghe giảng, chương trình học còn dựa vào SGK hiện hành nên không đảm bảo chất lượng, nhiều trường có số học sinh quá tải không đảm bảo mỗi lớp tối đa 30 học sinh.

Giáo viên và học sinh cũng vất vả khi phải trang trí, cần đủ bảng biểu, tranh ảnh cho mỗi bài học.

Một số phụ huynh cũng không muốn mô hình này với lý do như: sĩ số quá đông, học sinh giỏi và học sinh kém ngồi cùng nhóm dẫn đến học sinh kém copy bài của bạn. Điều này khiến phụ huynh có con giỏi thấy bất công khi con mình giỏi hơn nhưng chỉ cao điểm bằng các bạn khác, còn phụ huynh có con học kém không rõ thực hư lực học của con mình thế nào.

Một số phụ huynh không hiểu cách học mô hình mới, khi giáo viên đưa dữ liệu và gợi ý cách giải để học sinh tự chủ làm, nếu họ sinh có khó khăn gì thì giáo viên sẽ giúp đỡ, nhưng phụ huynh lại nghĩ rằng giáo viên không giảng bài, nên không muốn con mình theo học mô hình này.

Có phụ huynh thì thấy con không hiểu bài, nhưng không có sách tham khảo nên không biết kèm thêm cho con thế nào.

Rõ ràng mô hình VNEN còn vướng một số bất cập, nhưng những lý do trên đây hoàn toàn có thể giải quyết được.

Mặt khác, giáo viên cũng chưa quen với mô hình mới này. Thời đi học, các giáo viên được học theo cách truyền thống, nay đi dạy cũng quen với phương cách truyền thống, nên khi áp dụng mô hình khác rất khó để có thể thích nghi ngay được.

Mặc dù có một số ý kiến đề nghị bỏ mô hình VNEN, nhưng nhận thấy lợi ích từ mô hình này, cùng với nhiều địa phương áp dụng thành công, Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn tiếp tục thực hiện mô hình này trên cơ sở tự nguyện, không áp đặt và có những điều chỉnh thích hợp.

>> ‘Người xưa học vì mình, người nay học vì người’, học sinh bây giờ học vì ai?

Nhiều địa phương nhân rộng mô hình VNEN và nhận được lợi ích

Nếu như năm học 2014-2015 có 1.471 trường áp dụng mô hình VNEN, thì đến năm học 2015-2016, số trường áp dụng đã tăng lên 4.147 trường (tức tăng gần hơn 3 lần), trong đó có 2.730 trường tiểu học tự nguyện áp dụng mô hình này; bậc THCS có 1.778 trường ở 61 tỉnh thành.

Đến đầu năm học 2016-2017, trong khi một số tỉnh như Hà Giang, Hà Tĩnh và Vũng Tàu ngừng nhân rộng mô hình VNEN, nhưng trước những thực tiễn lợi ích mà mô hình này mang lại, nhiều tỉnh tiếp tục nhân rộng, thêm nhiều trường đăng ký.

Sài Gòn tiếp tục nhân rộng VNEN vì nhiều lợi ích

Tại kỳ họp thứ 2 HĐND thành phố khóa IX tháng 8/2016, khi có người nêu vấn đề một số tỉnh đã ngưng mô hình VNEN, vậy Sài Gòn sẽ như thế nào?

Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Lê Hồng Sơn trả lời rằng, ban đầu khi thực hiện mô hình này, thành phố cũng gặp một số khó khăn nhất định (giống như các địa phương khác). Nhưng sau 4 năm thực hiện, Sở đánh giá mô hình VNEN là rất tốt cả về chất lượng và số lượng. Lớp học nhẹ nhàng, thoải mải, thân thiện hơn rất nhiều.

Học sinh được làm quen với phương pháp học tập nhóm, tương tác giữa giáo viên và học sinh rất tốt, học sinh tiếp nhận kiến thức một cách chủ động chứ không thụ động như trước, đây chính là mục tiêu mà ngành giáo dục đang hướng tới.

“Đến nay thành phố đã nhân rộng mô hình VNEN ở 63 trường tiểu học. Trong đó ở khối lớp 2 có 189 lớp, khối 3 có 202 lớp, khối 4 có 84 lớp và 24 lớp ở khối 5. Không chỉ áp dụng mô hình này ở bậc tiểu học, Sở Giáo dục sẽ tiếp tục nhân rộng, triển khai ở bậc THCS”, ông Sơn cho biết.

Gia Lai tiếp tục thực hiện VNEN vì tín hiệu tích cực trong giáo dục

Với 4 năm thực hiện thí điểm mô hình VNEN, tỉnh Gia Lai tiếp tục duy trì mô hình này trong năm học 2016-2017 tại 70 trường của 17 huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, áp dụng cho học sinh từ lớp 2 đến lớp 5. Trên cơ sở tự nguyện, các trường chủ động nghiên cứu và áp dụng mô hình này phù hợp với điều kiện thực tế của từng trường.

VNEN
Học sinh hoạt động theo nhóm. (Ảnh: N.T/baogialai.com.vn)

Với mô hình VNEN, tỉnh Gia Lai ghi nhận nhiều chuyển biến và chất lượng giáo dục được nâng cao. Học sinh được giáo dục toàn diện, tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, đồng thời có thể chủ động bày tỏ ý kiến của mình trong khi thảo luận, trao đổi nội dung bài học… Chương trình cũng giúp học sinh nâng cao ý thức tự học, kỹ năng làm việc theo nhóm,… qua đó phát triển khả năng giao tiếp, phát triển năng lực tự quản, tự đánh giá…

Bình Thuận: Nhiều trường tiểu học tiếp tục đăng ký mô hình VNEN

Tại Bình Thuận, sau 3 năm đưa vào áp dụng, đã có 87/280 trường tiểu học đăng ký thực hiện VNEN, trong đó có 15 trường được dự án tài trợ hoàn toàn, các trường còn lại đều tự chi trả kinh phí.

Năm học 2016-2017, mặc dù các trường thuộc dự án không còn được tài trợ nữa và một số địa phương khác cũng ngừng nhân rộng mô hình này, nhưng số trường tiểu học tại Bình Thuận đăng ký áp dụng vẫn đông.

VNEN
Học sinh được phân chia ngồi theo thành từng nhóm để dễ thảo luận – Một tiết học theo mô hình VNEN tại Trường tiểu học Đức Nghĩa- Bình Thuận. (Ảnh: Đ.Hòa – baobinhthuan.com.vn)

Khi được hỏi về điều được lớn nhất sau 3 năm thực hiện mô hình VNEN tại tỉnh là gì, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thị Toàn Thắng trả lời trên Báo Bình Thuận: “Đó là việc thay đổi về cách quản lý nhà trường và tổ chức lớp học… Hàng tuần, học sinh tự lên kế hoạch học tập, giáo viên chỉ lắng nghe và đứng quan sát, khi học sinh cần giáo viên mới trợ giúp.

Thêm nữa, mô hình VNEN không phải cho điểm mà giáo viên chỉ nhận xét, đánh giá học sinh nên không gây áp lực cho học sinh. Các lớp học tổ chức theo VNEN cũng được trang trí thoáng mát, thân thiện phù hợp với môi trường học đường thân thiện, học sinh tích cực.”

Nếu không thay đổi, giáo dục Việt Nam sẽ mãi mãi tụt hậu

Lâu nay, giáo dục Việt Nam được xem là tụt hậu xa so với thế giới, vì thế ngành giáo dục đã có những cố gắng nhằm thu hẹp khoảng cách so với thế giới, và mô hình VNEN chính là vì mục đích ấy.

Đổi mới trong giáo dục để có hiệu quả đòi hỏi cần có đổi mới trong tư duy và phương pháp giảng dạy của giáo viên, trong khi đó đội ngũ giáo viên được học và đào tạo từ nền giáo dục cũ trước đây. Vì thế, việc hướng dẫn thay đổi phương pháp tư duy giảng dạy cho giáo viên là khó, nhưng đổi mới giáo dục muốn thành công thì cần phải làm được.

Ví như trong việc áp dụng mô hình VNEN, để triển khai mô hình thành công, thì song song với việc thay đổi phương pháp giảng dạy cũng cần thay đổi cả tư duy của giáo viên. Việc thay đổi này cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và có những điều chỉnh thích hợp với môi trường của giáo dục Việt Nam, với những khác biệt về vùng miền, điều kiện kinh tế – xã hội của các địa phương,…

Giáo dục Việt Nam muốn tiến bộ để bắt kịp các nền giáo dục tiên tiến thì bắt buộc cần có sự thay đổi, nhưng thay đổi như thế nào, tất sẽ có nhiều phản ứng, cả ủng hộ và phản đối. Trong đó, cốt lõi của việc thay đổi là ở giáo viên. Nếu mỗi giáo viên không tự chủ động tìm kiếm, nghiên cứu, mà muốn an nhàn với cách giảng dạy như cũ, thì cũng tương đương với việc vĩnh viễn chấp nhận tụt hậu.

Trần Hưng

Xem thêm: