Chúng ta vẫn tưởng rằng lực hấp dẫn là độc lập và không bị ảnh hưởng bởi điện từ trường. Tuy nhiên những thí nghiệm của các nhà khoa học lại cho thấy, trong nhiều hoàn cảnh, trọng lực bị ảnh hưởng mạnh bởi điện từ trường. 

>> Những điểm đáng ngờ về lực hấp dẫn – P2: Trọng lực có thể bị che chắn?

thí nghiệm lực hấp dẫn, ảnh hưởng điện từ trường tới trọng lực
(Ảnh: Zita/Shutterstock)

Các kết quả thí nghiệm khác nhau dường như chỉ ra mối liên hệ giữa lực điện từ và trọng lực. Chẳng hạn, Erwin Saxl nhận thấy rằng khi một con lắc xoắn được tích điện dương, nó sẽ mất nhiều thời gian hơn để nó đi hết quỹ đạo vòng cung của mình so với khi được tích điện âm.

Maurice Allais đã tiến hành thí nghiệm vào năm 1953 để nghiên cứu tác động của từ trường lên chuyển động của một con lắc thủy tinh dao động bên trong một cuộn dây điện từ và kết luận rằng có một mối liên hệ giữa điện từ và trọng lực. [1]

Bruce DePalma đã tiến hành nhiều thí nghiệm cho thấy sự dao động và từ trường tròn có thể có tác dụng hấp dẫn và quán tính dị thường. [2] Các thí nghiệm của Podkletnov dường như đã xác nhận điều này.

Một nhà nghiên cứu về điện gây tranh cãi là John Searl, một kỹ thuật viên điện tử người Anh. [2] Năm 1949, ông phát hiện ra rằng một điện áp nhỏ (hay lực điện động) được tạo ra trong các vật kim loại quay tròn. Điện tích âm ở bên ngoài và điện tích dương nằm xung quanh tâm quay. Ông lý luận rằng các electron tự do đã bị ném ra bởi lực ly tâm, để lại một điện tích dương ở trung tâm.

Năm 1952, ông đã chế tạo một máy phát điện dựa trên nguyên tắc này, đường kính khoảng 1 mét. Khi được thử nghiệm ngoài trời, nó đã tạo ra một hiệu ứng tĩnh điện mạnh mẽ trên các vật thể gần đó, kèm theo âm thanh lách tách và mùi ozone. Máy phát điện sau đó tự nhấc lên khỏi mặt đất, trong khi vẫn tăng tốc và tăng lên độ cao khoảng 16 mét, phá vỡ kết nối với động cơ. Nó lơ lửng trong một thời gian ngắn, vẫn tăng tốc. Một quầng hồng xuất hiện xung quanh nó, biểu thị sự ion hóa không khí xung quanh. Nó cũng khiến các máy thu radio địa phương  hoạt động. Cuối cùng, nó đạt được một vận tốc quay quan trọng khác, nhanh chóng đạt được độ cao và biến mất khỏi tầm nhìn.

Searl đã nói rằng ông và các đồng nghiệp của mình sau đó đã xây dựng hơn 50 phiên bản khác nhau với nhiều kích cỡ khác nhau của vật thí nghiệm này và học cách kiểm soát chúng. Ông tuyên bố đã bị chính quyền đàn áp, dẫn đến việc bị bỏ tù sai và phá hủy hầu hết các công việc của ông, do đó ông đã phải bắt đầu lại từ đầu. Ông tuyên bố rằng vào đầu những năm 1970, một trong những thiết  bị của ông đã bay vòng quanh thế giới nhiều lần mà không bị phát hiện.

thí nghiệm lực hấp dẫn, ảnh hưởng điện từ trường tới trọng lực
Thiết bị bay của John Searl (nguồn: cargocollective.com)

Mặc dù nhiều người cho rằng Searl là một kẻ lừa đảo, nhưng có nhiều dấu hiệu cho thấy hiệu ứng ‘Searl có thể liên quan đến sự bất thường thực sự của trọng lực’. Hai nhà khoa học Nga, V.V. Roschin và S.M. Godin, đã thực hiện một thí nghiệm với máy phát điện kiểu Searl và quan sát thấy hiện tượng giảm 35% trọng lượng, phát quang, mùi ozone, hiệu ứng từ trường dị thường và nhiệt độ giảm. Họ kết luận rằng, vật lý lý thuyết không có ether không thể giải thích những kết quả này. [4] Tuy nhiên, không dễ để phân tích tách biệt dị thường trọng lực thực sự khỏi các thành phần điện động trong các thí nghiệm như vậy.

Vào những năm 1980, kỹ sư điện Floyd Sweet đã phát triển một thiết bị bao gồm một bộ nam châm được điều hòa đặc biệt, quấn với các dây điện, được gọi là bộ khuếch đại triode chân không (VTA – vacuum triode amplifier), được thiết kế để tạo ra dao động trong từ trường. Nó có thể tạo ra nhiều năng lượng đầu ra hơn so với năng lượng đầu vào, bằng cách thu năng lượng từ ‘chân không’ (tức là năng lượng ether). Trong một thí nghiệm, nó đã mất 90% so với trọng lượng ban đầu trước khi thử nghiệm và bị dừng vì lý do an toàn. Sweet sau đó đã thành công trong việc làm cho VTA bay lơ lửng và tăng tốc lên, trong khi vẫn bị buộc dây với phía mặt đất. Floyd đã trở nên rất hoang tưởng sau một vụ được cho là bị ám sát hụt. Ông chết mà không thể tiết lộ đầy đủ bí mật phát minh của mình. [5]

sweet vacuum trio floyd
Floyd Sweet và bộ khuếch đại triode chân không VTA của mình (nguồn: freeenergyplanet.org)

“Hiệu ứng Hutchison” đề cập đến một tập hợp các hiện tượng được phát hiện tình cờ bởi nhà phát minh John Hutchison vào năm 1979. Ảnh hưởng điện từ do sự kết hợp của các thiết bị năng lượng điện, bao gồm cuộn dây Tesla, đã tạo ra hiện tượng các vật thể nặng tự bay lên (bao gồm một khối cầu bằng kim loại, nặng 27kg), hợp nhất các vật liệu khác nhau như kim loại và gỗ, nung nóng kim loại dị thường mà không đốt vật liệu, hiện tượng tự nứt vỡ kim loại và thay đổi trong cấu trúc tinh thể và tính chất vật lý của kim loại. Các hiệu ứng đã được ghi lại bằng video, và được chứng kiến ​​nhiều lần bởi các nhà khoa học và kỹ sư có uy tín, nhưng rất khó để tái tạo thí nghiệm một cách nhất quán. [6]

Một nhóm các nhà khoa học từ Lầu Năm Góc đã mất vài tháng để điều tra hiệu ứng Hutchison vào năm 1983. Bốn trong số các nhà điều tra đã tin rằng đó là sự thật, trong khi người thứ năm đơn chỉ giản bác bỏ bất cứ điều gì xảy ra, ông cho rằng tất cả đều là trò ảo thuật và đánh lừa người xem. Nhiều hiện tượng đã được chứng kiến: một thanh molypden siêu cứng được uốn thành hình chữ S như thể nó là kim loại mềm; một thanh thép có hàm lượng carbon cao bị băm nhỏ ở một đầu và biến thành chì ở đầu kia; một mảnh nhựa PVC biến mất trong không khí mỏng; các mảnh gỗ bị gắn vào giữa các mảnh nhôm; và tất cả các loại đối tượng đều bay lên.

Hai công ty hàng không vũ trụ (Boeing và McDonnell Douglas) cũng đã điều tra hiệu ứng Hutchison. Vấn đề là tính ngẫu nhiên và không thể đoán trước của các hiện tượng xuất hiện trong thí nghiệm. Thật vậy, một số nhà nghiên cứu nghĩ rằng ít nhất một phần các kết quả thí nghiệm xuất hiện là do năng lực tâm sinh lý vô thức của chính Hutchison. [7]

Video về hiệu ứng Hutchison:

Podkletnov đã tuyên bố rằng nếu các chất siêu dẫn được quay nhanh hơn 5 đến 10 lần so với tốc độ thông thường khoảng 5000 vòng/phút, thì đĩa sẽ bị giảm cân rất nhiều, đến nỗi nó có thể bay lên và biến mất.[8]

Joe Parr và Dan Davidson nói rằng họ đã đo được trọng lượng tổn thất tới 50% trong ‘bánh xe trọng lực’ – một bánh xe nhỏ bằng đồng nằm trong một hình tam giác, được quay trên trục bởi một động cơ tốc độ cao, giữa các nam châm vĩnh cửu gắn ở hai bên. [9]

Các nhà khoa học Paulo CorreaAlexandra Correa chuyên về ether cũng đã chứng minh rằng lực hấp dẫn có thể được kiểm soát bằng phương tiện điện từ. Trong một thí nghiệm, một miếng vàng lá 43 miligam, treo lơ lửng trên cánh tay bằng gỗ kết nối với cân điện tử nhạy cảm (ở xa bên cạnh), đã nhanh chóng giảm 70% trọng lượng. Điều này đạt được bằng cách áp đặt một tần số điện được điều chỉnh để phù hợp với tần số phản trọng lực của lá vàng. Kỹ thuật này có thể tạo ra hiện tượng giảm 100% trọng lượng với các đối tượng có thành phần đã biết trong phạm vi 100 miligam.[10]

Hai nhà khoa học Paulo Correa và Alexandra Correa với các thiết bị thí nghiệm về điện từ trường (nguồn: aetherometry)

Ước tính có khoảng 2.000 đến 3.000 người thử nghiệm trên toàn thế giới đã thực hiện nghiên cứu không chính thống về các công nghệ vượt ra ngoài các mô hình khoa học hiện đang được chấp nhận, bao gồm kiểm soát trọng lực và các thiết bị năng lượng tự do. [11]

Tiến sĩ Paulo Correa và Tiến sĩ Alexandra Correa nổi bật với cách tiếp cận thử nghiệm nghiêm ngặt của họ. Họ nói rằng họ đã quan sát thấy việc giảm cân bằng lò phản ứng PAGD (Pulsed Abnormal Glow Discharge – phóng điện bất thường theo xung) của họ, nhưng thực tế là các quan sát rất khó tái tạo khiến họ tin rằng họ đã không bảo vệ đúng đắn các thí nghiệm khỏi các tạo tác điện động trong những dây đầu vào hoặc trong việc sắp xếp các dây dẫn lỏng.

Không phải tất cả các nhà nghiên cứu thay thế đều thận trọng và tự phê bình như thế này, và tiêu chuẩn nghiên cứu là không đồng đều.

Theo “Gravity and Antigravity” của David Pratt
Thiện Tâm dịch 

>> Những điểm đáng ngờ về lực hấp dẫn – P1: Sự dị thường của trọng lực

>> Những điểm đáng ngờ về lực hấp dẫn – P2: Trọng lực có thể bị che chắn?

Tài liệu tham khảo:

  1. E.J. Saxl, ‘An electrically charged torque pendulum’, Nature, v. 203, 1964, pp. 136-138; Maurice Allais, ‘The action of a magnetic field on the motion of a pendulum’, 21st Century Science and Technology, summer 2002, pp. 34-40.
  2. The Home of Primordial Energy (Bruce DePalma), www.depalma.pair.com; Jeane Manning, The Coming Energy Revolution: The search for free energy, NY: Avery, 1996, pp. 82-86.
  3. Rho Sigma (Rolf Schaffranke), Ether-Technology: A rational approach to gravity control,

Lakemont, GA: CSA Printing & Bindery, 1977, pp. 73-82, 87-88, 108; John Davidson, The Secret of the Creative Vacuum, Saffron Walden, Essex: Daniel Company, 1989, pp. 200-216; The Searl Effect, www.searleffect.com.

  1. V.V. Roschin and S.M. Godin, ‘Experimental research of the magnetic-gravity effects’, www.rexresearch.com/roschin/roschin.htm.
  2. The Coming Energy Revolution, pp. 74-76; Thomas E. Bearden, Energy from the Vacuum, Santa Barbara, CA: Cheniere Press, 2002, pp. 305-321, 436-468, 455, 459-464, 502-503.
  3. Mark A. Solis, ‘The Hutchison effect – an explanation’, www.geocities.com/ResearchTriangle/Thinktank/8863/HEffect1.html.
  4. Nick Cook, The Hunt for Zero Point, London: Arrow, 2002, pp. 377-387.
  5. Ibid., p. 342.
  6. Dan A. Davidson, ‘Free energy, gravity and the aether’, 1997, www.keelynet.com/davidson/npap1.htm; Dan A. Davidson, Shape Power, Sierra Vista, AR: RIVAS, 1997, pp. 98-104.
  7. Eugene F. Mallove, ‘A matter of gravity’, Infinite Energy, 8:45, 2002, pp. 6-8,

aetherometry.com/mallove_letter2.html; Massfree Energy Technologies, www.massfree.com (T echnologies).