Theo các nhà nghiên cứu, Molnupiravir, thuốc điều trị COVID-19 dạng viên mới được công bố của hãng dược phẩm Merck, đi kèm tác dụng phụ là có thể gây đột biến nghiêm trọng trong tế bào của động vật có vú. Tuy nhiên, gã khổng lồ dược phẩm đã phủ nhận thông tin này. 

Molnupiravir
Thuốc kháng virus dạng viên uống Molnupiravir. (Ảnh minh họa: Par Candidman/Shutterstock)

Trong một thông cáo mà hãng dược phẩm Merck đưa ra vào ngày 1/10, Molnupiravir đã chứng minh tỷ lệ thành công 50% trong việc ngăn ngừa tình trạng nhập viện và tử vong so với nhóm dùng giả dược trong một thử nghiệm lâm sàng. Tuyên bố này đã gây ra sự biến động lớn về giá trị cổ phiếu liên quan đến dược phẩm.

Thông cáo cũng cho biết cuộc thử nghiệm đã bị hoãn nửa chừng theo khuyến nghị của Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) Mỹ và hãng Merck sẽ xin Cấp phép Sử dụng Khẩn cấp (EUA) càng sớm càng tốt.

Dẫu vậy, một bài báo đăng tải trên trang Barron’s vào hôm 5/10 cho biết, Molnupiravir cũng có gây ra phản ứng phụ do sản phẩm này đã được chứng minh là gây đột biến trong tế bào động vật có vú. “Molnupiravir hoạt động bằng cách kết hợp chính nó vào vật liệu di truyền của virus, sau đó gây ra một số lượng lớn các đột biến khi virus nhân lên và tiêu diệt nó một cách hiệu quả”, trích nội dung bài báo.

“Trong một số thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, loại thuốc này cũng cho thấy khả năng tích hợp vào vật liệu di truyền của tế bào động vật có vú, gây ra đột biến khi các tế bào đó tái tạo”.

Raymond Schinazi, giáo sư tại trường Đại học Emory, nơi phát triển sản phẩm Molnupiravir, nói với hãng tin Barron’s rằng: “Quá trình cấp phép cần tiến hành một cách thận trọng và xét đến rủi ro của chính bạn”.

Theo Barron’s, Schinazi là người không tham gia vào việc phát triển Molnupiravir, nhưng trong nhiều thập kỷ đã nghiên cứu NHC – hợp chất hoạt tính mà viên thuốc Merck tổng hợp trong cơ thể để tạo ra tác dụng kháng virus.

Schinazi cho biết thêm rằng: “Ông không tin Molnupiravir nên được dùng cho phụ nữ mang thai hoặc cho những người trẻ tuổi trong độ tuổi sinh sản, cho đến khi có thêm dữ liệu”.

Tuy nhiên, theo bài báo của hãng tin Barron’s, Schinazi cũng có mâu thuẫn lợi ích nào đó với Merck: “Ông là người sáng lập công ty công nghệ sinh học Pharmasset, nơi mà ông cho biết đã xem xét việc phát triển NHC như một phương pháp điều trị viêm gan C vào năm 2003, nhưng không chọn do nguy cơ nó có thể gây đột biến”.

“Pharmasset đã tạo ra thuốc chữa viêm gan C Sovaldi, và Gilead Sciences (GILD) cuối cùng đã mua lại công ty với giá 11 tỷ USD”, trích nội dung bài báo.

GILD là công ty sản xuất Remdesivir, thuốc điều trị COVID-19 đầu tiên được FDA chấp thuận.

Một bài báo xuất bản trên Science vào tháng 10/2020 đã chỉ trích việc chấp thuận Remdesivir, trong đó tác giả nói rằng “FDA chưa bao giờ hỏi ý kiến ​​một nhóm chuyên gia bên ngoài mà tự cân nhắc các vấn đề phức tạp về thuốc kháng virus”.

“Trong khi đó, Liên minh Châu Âu đã quyết định giải quyết vấn đề định giá Remdesivir đúng 1 tuần trước khi đưa ra kết quả thử nghiệm đáng thất vọng. Họ không biết về những kết quả đó, mặc dù Gilead được thông báo về dữ liệu vào ngày 23/9 và biết rằng cuộc thử nghiệm đã thất bại”, trích nội dung bài báo.

Theo bài báo, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tiến hành thử nghiệm Solidarity – thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III – IV đa quốc gia do tổ chức này và các đối tác thực hiện để so sánh 4 phương pháp điều trị chưa được thử nghiệm cho những người nhập viện mắc bệnh COVID-19 nghiêm trọng. Kết quả thử nghiệm “chỉ ra rằng Remdesivir không làm giảm tỷ lệ tử vong hoặc thời gian bệnh nhân COVID-19 cần để phục hồi”.

Ý kiến ​​của Schinazi được xem là phù hợp với nghiên cứu mà ông thực hiện với Ralph Baric và nhóm của ông tại Đại học North Carolina (UNC) Chapel Hill, một nhà nghiên cứu và một tổ chức có quan hệ với Viện Virus học Vũ Hán về nghiên cứu tăng chức năng đối với virus corona ở dơi.

Trong một nghiên cứu 7/5/2021, nhóm UNC của Baric cho rằng thử nghiệm cho thấy NHC đạt hiệu quả cao trong việc đưa chất gây đột biến vào virus corona, nhưng “NHC cũng cho thấy hoạt động gây đột biến của vật chủ trong một thử nghiệm nuôi cấy tế bào động vật, phù hợp với các tiền chất RNA và DNA có chung chất trung gian ribonucleoside diphosphate. Những kết quả này chỉ ra rằng ribonucleoside gây đột biến với hoạt tính cao có thể gây rủi ro cho vật chủ”.

Một nghiên cứu tương tự được tiến hành vào tháng 4/2020 của nhóm Ralph Baric cho thấy Molnupiravir đạt hiệu quả cao trong việc chống lại virus corona SARS ban đầu, và MERS (Hội chứng Hô hấp Trung đông), một loại virus corona khác có khả năng lây nhiễm cao và gây tử vong.

Nhà nghiên cứu của UNC Zhou Shuntai tỏ ra khá thẳng thắn khi nói với hãng tin Barron’s về nghiên cứu của mình: “Có một mối lo ngại rằng điều này sẽ gây ra các tác động đột biến lâu dài, thậm chí là ung thư. Kết quả hóa sinh không biết nói dối. Loại thuốc này sẽ xâm nhập vào trong DNA”.

Trong một lá thư gửi cho biên tập viên ngày 12/7, được xuất bản trên Tạp chí Oxford về Bệnh truyền nhiễm, các nhà khoa học tại Merck đã nêu ra các vấn đề đối với những phát hiện và phương pháp nghiên cứu của UNC: “Ngược lại, chúng tôi đã tiến hành một loạt nghiên cứu toàn diện hơn về độc tính di truyền trong thử nghiệm trong ống nghiệm (in vitro) và trên sinh vật sống (in vivo), dựa trên toàn bộ dữ liệu, chứng minh nguy cơ nhiễm độc gen thấp… trong việc sử dụng lâm sàng”.

“Điều quan trọng cần lưu ý là các điều kiện xét nghiệm được Zhou và cộng sự sử dụng cho thí nghiệm in vitro HPRT của họ khác biệt đáng kể so với các quy trình tiêu chuẩn được thực hiện theo các hướng dẫn xét nghiệm theo quy định. Kết quả đột biến do Zhou và cộng sự cung cấp được báo cáo là tổng số khuẩn lạc đột biến (mutant colonies) chứ không phải tần số đột biến, điều này không cho phép so sánh dữ liệu đối chứng âm tính và dương tính với các tài liệu được công bố rộng rãi. Cơ sở lý luận về nồng độ NHC được sử dụng trong xét nghiệm (hoặc các hợp chất đối chứng đồng thời) đã không được cung cấp. Để tránh kết quả dương tính giả có thể xảy ra, nồng độ cao nhất được thử nghiệm phải tránh tạo ra kết tủa trong môi trường nuôi cấy, thay đổi rõ rệt về độ pH hoặc nồng độ thẩm thấu, hoặc gây độc tế bào quá mức”.

“Cuối cùng, thông tin liên quan đến nguồn gốc và độ tinh khiết của vật liệu NHC được sử dụng đã không được cung cấp”, trích nội dung lá thư.

Ý kiến ​​của bên thứ 3 được Barron’s đưa ra bởi giáo sư Nathaniel Landau đến từ Trường Y Grossman NYU tại khoa vi sinh vật học: “Với khả năng thuốc có thể được xâm nhập vào tế bào DNA, điều rất quan trọng là phải chứng minh không có dấu hiệu ung thư ở mô hình động vật và ở người”.

“Mặc dù thuốc có vẻ tốt đối với các mô hình động vật, nhưng điều quan trọng là không nên vội vàng đưa nó vào sử dụng lâm sàng trước khi rất tự tin rằng nó không gây ung thư ngay cả ở tỷ lệ rất thấp”.

Theo Vision Times,

Phan Anh

Xem thêm: