Nền kinh tế Mỹ chịu tác động liên tục bởi các đợt tăng lãi suất của Cục Dự trữ liên bang (Fed) trong suốt thời gian qua. Việc nâng lãi suất lên cao nhất kể từ năm 2008 trong cuộc họp tháng 9 cũng khiến các khoản vay thẻ tín dụng, vay cá nhân của người dân Mỹ chịu thêm gánh nặng. Theo một phân tích, trong những lần nâng lãi suất trước đó của Fed đã làm người dân Mỹ tăng thêm khoảng 15,3 tỷ USD tính riêng nợ thẻ tín dụng.

nguoi tieu dung My Fed nang lai suat cuc du tru lien bang sieu thi tang gia 2177608725
Trước động thái nâng lãi suất của Fed, người tiêu dùng Mỹ sẽ phải tăng thêm hơn 15,3 tỷ USD trong nợ thẻ tín dụng. (Ảnh minh họa: Shutterstock)

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất thêm 75 điểm cơ bản trong cuộc họp chính sách tháng 9. Sau 4 lần tăng trước đó, lãi suất  của các khoản vay liên bang chuẩn hiện nằm trong phạm vi mục tiêu 3% –3,25. Các quan chức Fed báo hiệu rằng sự gia tăng lớn hơn nữa có khả năng xảy ra tại 2 cuộc họp còn lại trong năm nay.

Theo đó, các quyết định của Fed có hậu quả đối với các thị trường tài chính rộng lớn hơn, nhưng chúng cũng có thể có những tác động không nhỏ đối với ngân sách hộ gia đình trên khắp nước Mỹ, cho dù đó là thẻ tín dụng hay tài khoản tiết kiệm.

Thẻ tín dụng và khoản vay cá nhân

Fed ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất cơ bản, là lãi suất cơ bản về cách các lãi suất khác được tạo ra, cho dù đó là cho khoản vay cá nhân hay khoản vay mua ôtô.

Các doanh nghiệp phát hành thẻ tín dụng sẽ tính cho chủ thẻ một mức lãi suất thay đổi dựa trên lãi suất chính. Bởi vì các quyết định của ngân hàng trung ương Mỹ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn, điều này có thể ảnh hưởng đáng kể đến những gì người Mỹ phải trả trên thẻ tín dụng của họ. Ngày nay, tỷ lệ phần trăm trung bình hàng năm của thẻ tín dụng (APR) là 18,1%, tăng từ 17,1% vào giữa tháng 7, theo Bankrate.

Một phân tích gần đây từ trang web tài chính cá nhân WalletHub ước tính rằng việc tăng lãi suất sẽ khiến người tiêu dùng phải trả thêm 5,3 tỷ USD nợ thẻ tín dụng trong 12 tháng tới. Đó là ngoài mức tăng 15,3 tỷ USD mà người Mỹ đã phải gánh chịu trong năm nay do kết quả của việc tăng lãi suất trước đó của Fed.

“Nợ thẻ tín dụng rất dễ mắc phải và khó thoát ra khỏi”, Ted Rossman, nhà phân tích ngành cấp cao của CreditCards.com, cho biết trong một báo cáo. “Lạm phát cao và lãi suất tăng đang khiến việc thoát ra càng khó khăn hơn”.

Hạn mức tín dụng vốn chủ sở hữu nhà (HELOCs) cũng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các động thái của Fed, vì các sản phẩm tín dụng đó thường gắn liền với lãi suất cơ bản. Lãi suất gắn liền với các khoản vay mua ôtô cũng thường được kết nối với lãi suất cơ bản.

Vay thế chấp tài sản

Lãi suất thế chấp được cấu trúc hơi khác một chút. Đối với hầu hết các phần, chúng được kết nối với lợi suất trái phiếu kho bạc 10 năm.

Tuy nhiên, quyết định của Fed có ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất thế chấp này. Thị trường thế chấp có thể đã tính đến sự gia tăng lãi suất dự kiến. Kể từ đầu năm, lãi suất thế chấp đã tăng hơn gấp đôi, đứng đầu 6%, lên mức cao nhất kể từ vụ sụp đổ thị trường bất động sản năm 2008.

Nếu Fed cho thấy có nhiều đợt tăng lãi suất hơn, lãi suất thế chấp sẽ có thể tăng hơn nữa.

Trong khi các nhà đầu tư đang đặt cược rằng Fed sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất vào đầu năm tới để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các nhà hoạch định chính sách công khẳng định rằng lãi suất sẽ duy trì ở mức cao trong ít nhất 15 tháng tới.

Điều đó có nghĩa là việc tiếp cận tín dụng sẽ trở nên đắt đỏ hơn hoặc tốn nhiều chi phí hơn để phục vụ các mức nợ hiện tại.

Ngoài ra, theo báo cáo Khảo sát kỳ vọng của người tiêu dùng (SCE) gần đây của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York (FRBNY), có 58% tin rằng sẽ khó có được khoản vay tín dụng trong vòng 1 năm tới.

Các chuyên gia tài chính cho rằng điều quan trọng đối với người tiêu dùng mắc nợ điển hình là phải sửa đổi tài chính hộ gia đình của họ trước khi tỷ lệ trở nên quá cao. Điều đó bao gồm việc tạo ra một ngân sách, chi tiêu trong khả năng của bạn, trả hết nợ, tập hợp một quỹ khẩn cấp và tiếp tục tiết kiệm.

“Điều quan trọng là phải đánh giá cẩn thận các chi phí tái diễn và cắt giảm ‘phí ô tô’ có thể được thực hiện mà không cần,” Shmuel Shayowitz, Chủ tịch và giám đốc cho vay tại Approved Funding, nói với The Epoch Times. “Hãy thoát khỏi thói quen sống bằng thẻ tín dụng, vay vốn và trì hoãn việc mua hàng bất cứ khi nào có thể”.

Tiết kiệm và đầu tư

Khi các ngân hàng trung ương cắt giảm lãi suất, người tiêu dùng thường chuyển đổi từ tiết kiệm và chuyển sang thị trường chứng khoán để bảo vệ tiền của họ khỏi lạm phát. Tuy nhiên, bây giờ quốc gia đang cố thủ giữa một chu kỳ thắt chặt, người gửi tiền sẽ nhận được các khoản thanh toán chịu lãi suất tốt hơn cho khoản tiết kiệm của họ.

Thật không may, lãi suất thực tế (điều chỉnh lạm phát) vẫn nằm trong vùng subzero, có nghĩa là người tiết kiệm tiếp tục chịu đựng lợi nhuận âm trên tiền gửi của họ.

Nhưng các quan chức Fed đã khẳng định rằng họ sẽ không ngừng tăng lãi suất cho đến khi họ kiềm chế thành công lạm phát giá cao nhất trong 40 năm. Ngoài ra, nhiều thành viên FOMC đã lưu ý rằng mọi người cần phải làm quen với lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn.

Tỷ lệ tiết kiệm cá nhân đang trên đà đi xuống, giảm xuống còn 5% trong tháng 7 kể từ khi đạt đỉnh gần 35%.

Đồng thời, danh mục đầu tư đã bị ảnh hưởng trong bối cảnh kinh tế tỷ lệ gia tăng hiện nay. Thông thường, việc tăng lãi suất của ngân hàng trung ương Mỹ có thể có hiệu ứng domino.

Nhu cầu của người tiêu dùng suy yếu, làm chậm hoạt động kinh doanh. Tiếp theo, các nhà đầu tư bắt đầu thấy dấu hiệu của một nền kinh tế suy giảm, khiến họ bắt đầu nới lỏng các khoản đầu tư hoặc thậm chí cắt giảm lượng nắm giữ của mình.

Điều đó gây ra một đợt bán tháo, các nhà giao dịch hoảng loạn và đấu trường chứng khoán hiện đang bị mắc kẹt trong một thị trường gấu.

Việc này đã được thể hiện rõ ràng vào năm 2022 khi các chỉ số chuẩn hàng đầu đã sụt giảm trong suốt các nỗ lực thắt chặt của Fed. Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones đã giảm hơn 15%, chỉ số Nasdaq Composite giảm khoảng 27% và S&P 500 đã giảm gần 20%.