Cơ sở lý luận của việc tiêm chủng CoVid-19 (virus Trung Cộng, viêm phổi ở Vũ Hán) cho trẻ em là gì? Dữ liệu và cơ sở khoa học để hỗ trợ cho đề xuất ​​này ở đâu? Chúng tôi đã không nhìn thấy nó và chúng tôi nghĩ rằng nó rất nguy hiểm.

id12931020 vaccine 5895477 1920 1200x675 600x400 1
Không có cơ sở khoa học nào để tiêm vắc-xin COVID-19 cho trẻ em. (torstensimon / Pixabay)

Dưới đây là bài viết của 3 chuyên gia:

Tiến sĩ Paul Elias Alexander được đào tạo chuyên sâu về y học dựa trên bằng chứng và dịch tễ học lâm sàng, đồng thời, ông cũng đã được đào tạo sau đại học tại Đại học Oxford, Đại học Toronto và Đại học McMaster ở Hamilton, Ontario, và một số khóa đào tạo về dịch tễ học về khủng bố sinh học tại Johns Hopkins dưới sự chỉ đạo của Tiến sĩ Donald Henderson (người đã diệt trừ bệnh đậu mùa).

Tiến sĩ Howard Tenenbaum là Giám đốc Nha khoa của bệnh viện Mount Sinai và là trưởng bộ phận nghiên cứu nha khoa của bệnh viện.

Parvez Dara, MD, là bác sĩ chuyên khoa ung thư ở Toms River, New Jersey, có bằng MBA. Ông lấy bằng y khoa tại Đại học Y khoa King Edward và đã có hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực y khoa.

Tại sao lại có sự thúc đẩy tiêm chủng cho trẻ 6 tháng tuổi hoặc trẻ 10 tuổi thông qua một loại vắc-xin thử nghiệm, đưa mã di truyền vào tế bào của con người để hướng dẫn nó sản xuất một phần virus (protein Spike (S)), nhưng không có dữ liệu an toàn, chỉ dựa trên các thử nghiệm không đáp ứng đủ thời gian cần thiết để đánh giá đầy đủ độ an toàn của vắc-xin?

Tại sao lại đặt con em chúng ta vào nguy cơ quá mức này, khi chúng có thể chỉ bị lây nhiễm một cách tự nhiên và vô hại thông qua giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày.

Điều này là phi logic, không hợp lý và không có cơ sở, chúng tôi tin rằng quan điểm của chuyên gia là vô lý và đáng lẽ họ nên biết điều đó rõ hơn.

Những rủi ro gì?

Chuyên gia về bệnh truyền nhiễm của Mỹ, Tiến sĩ Anthony S. Fauci khuyến cáo về việc tiêm vắc-xin cho trẻ (6 tháng đến 11 tuổi) chống lại COVID-19 là không có cơ sở. Nguy cơ trẻ nhiễm COVID-19 là rất thấp, đặc biệt là nguy cơ bị bệnh nặng, và trẻ cũng sẽ không lây truyền virus. Theo dữ liệu mới nhất từ ​​Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ, “Trong số tất cả các ca tử vong do COVID-19, trẻ em chiếm 0,00% đến 0,19%, và 10 bang báo cáo không có trẻ em tử vong. Tại các bang được báo cáo, trong số tất cả ca nhiễm trẻ em, tỷ lệ tử vong là 0,00% ~ 0,03%.”

Một ví dụ khác là một nghiên cứu hoàn chỉnh, chất lượng cao điều tra sự lây lan của COVID-19 được thực hiện ở dãy Alps của Pháp. Họ theo dõi một đứa trẻ bị nhiễm bệnh đến ba trường khác nhau và tương tác với những đứa trẻ khác, giáo viên và những người lớn khác ở đó. Mặc dù có sự tương tác gần gũi nhưng không có sự lây truyền thứ cấp nào xảy ra. Những dữ liệu này đã được cung cấp cho Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) và các chuyên gia y tế khác hơn một năm trước.

Vào tháng 1/2021, các nhà nghiên cứu Thụy Điển đã công bố một bài báo trên Tạp chí Y học New England về sự lây nhiễm COVID-19 trên trẻ em từ 1 đến 16 tuổi và giáo viên của chúng ở Thụy Điển. Trong số gần 2 triệu trẻ em đang đi học ở Thụy Điển, không yêu cầu đeo khẩu trang nhưng không có ca tử vong nào do COVID-19, chỉ có một số ca nhiễm và rất ít người phải nhập viện.

Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature cho thấy, dựa trên một mẫu 10 triệu người, trong tất cả 1.174 người tiếp xúc gần, không có ca không triệu chứng nào lây nhiễm từ những ca dương tính không triệu chứng. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng đưa ra tuyên bố rằng rất hiếm khi có lây nhiễm không triệu chứng. Lây nhiễm không có triệu chứng là vấn đề then chốt để bắt buộc tiêm chủng ở trẻ em. Khám phá khoa học đi ngược lại với chính sách bắt buộc được đề xuất này.

Không chỉ không có bằng chứng ủng hộ quan điểm rằng trẻ em lây lan virus theo bất kỳ cách nào và do đó cần phải tiêm phòng, mà còn có bằng chứng trực tiếp cho thấy rằng chúng đơn giản không lây lan virus/bệnh tật nào cả. Điều này đã được thể hiện trong môi trường trường học các bài báo đã được xuất bản.

Nếu trẻ em bị nhiễm bệnh, chúng thường không có triệu chứng. Mọi người đều biết rằng “lây nhiễm không triệu chứng” không phải là yếu tố thúc đẩy đại dịch. Về vấn đề này, trẻ em rõ ràng không phải là tác nhân chính truyền nhiễm COVID-19, điều này không giống như việc trẻ là tác nhân gây ra bệnh cúm theo mùa.

Trong một số rất ít trường hợp trẻ bị nhiễm COVID-19, rất hiếm khi dẫn tới bệnh nặng hoặc tử vong. Cần nhắc lại rằng, giáo viên không có nguy cơ lây nhiễm virus từ trẻ em (và ngược lại).

Các tài liệu nhi khoa cho thấy nguy cơ trẻ nhiễm COVID-19 là rất thấp hoặc cực kỳ hiếm (gần bằng không), điều này đã là một kết luận.

Rủi ro và lợi ích

Không nên yêu cầu trẻ em chấp nhận các chính sách giống như người lớn mà không cân nhắc kỹ rủi ro và lợi ích. Tất nhiên, bất kể có yêu cầu đeo khẩu trang, phong tỏa, tiêm chủng, điều trị, cách ly xã hội, hoặc bất kỳ loại thuốc nào khác có thể được phát triển hoặc các biện pháp có thể được thực thi bởi các cơ quan chính phủ hay không, rủi ro bằng không là không thể.

Đối với gần như tất cả trẻ em dưới 20 tuổi, nguy cơ nhiễm COVID-19 là cực kỳ nhỏ và đối với trẻ em, nguy cơ tử vong về cơ bản là gần 0 (pdf) – đó là mức rủi ro gần bằng 0 nhất mà chúng ta có thể đạt được. Do đó, dưới góc độ chi phí và lợi ích, việc sử dụng vắc-xin chưa được kiểm định về cơ bản chỉ có rủi ro, và về bản chất không mang lại lợi ích gì.

Nguy cơ tiềm ẩn của các tác dụng phụ chưa biết và nghiêm trọng từ các loại vắc-xin hoàn toàn mới và hầu như chưa được thử nghiệm – trên thực tế – hoàn toàn không được biết đến. Đó là bởi vì việc một loại vắc-xin được công bố cho công chúng một cách nhanh chóng như vậy là chưa từng có. Điều đó không có nghĩa là bạn không nên chủng ngừa.

Đối với những quần thể có nguy cơ tử vong hoặc mắc bệnh nghiêm trọng do COVID-19 là đáng kể — người lớn tuổi từ trung niên trở lên hoặc những người mắc các bệnh mãn tính khác như các vấn đề về hô hấp nặng, tim hoặc miễn dịch nghiêm trọng — sử dụng vắc-xin mới và hầu như không được thử nghiệm không chỉ hợp lý, nó có thể và có thể là điều thận trọng và có trách nhiệm nhất để làm.

Chúng tôi chắc chắn không phải là những người chống vắc-xin, tất nhiên trẻ em nên được tiêm vắc-xin phòng bệnh sởi, quai bị và rubella, vì những loại vắc-xin này đã có tác động rất lớn đến tỷ lệ mắc bệnh và tử vong trong nhiều thập kỷ. Đối với những quần thể có nguy cơ tử vong hoặc có nguy cơ bị bệnh nặng do nhiễm COVID-19 – người trung niên và cao tuổi hoặc những người mắc các bệnh mãn tính khác, như các vấn đề về hô hấp, tim hoặc miễn dịch nghiêm trọng – sử dụng một loại vắc xin mới, chưa được thử nghiệm không chỉ hợp lý mà còn có thể là cách tiếp cận thận trọng và có trách nhiệm nhất.

Điều khó hiểu là thời gian gần đây xuất hiện hàng loạt ý kiến ​​ủng hộ việc tiêm vắc-xin cho trẻ. Tất nhiên, điều này cũng có nghĩa là vắc-xin thử nghiệm phải được thử nghiệm trên trẻ em trước khi được giới thiệu và sử dụng đại trà.

Moderna gần đây đã thông báo rằng họ đang bắt đầu nghiên cứu vắc-xin mRNA cho trẻ em từ 6 tháng đến 11 tuổi tại Hoa Kỳ và Canada. Đây là nỗ lực mới nhất nhằm mở rộng các chiến dịch tiêm chủng đại trà ngoài người lớn.

Ông Stephane Bancel, Giám đốc điều hành của Moderna, cho biết:Nghiên cứu nhi khoa này sẽ giúp chúng tôi đánh giá tính an toàn và khả năng sinh miễn dịch tiềm năng của các ứng cử viên vắc-xin COVID-19 trong nhóm dân số trẻ quan trọng này.” Theo các tài liệu đã thảo luận ở trên đây, rõ ràng là tuyên bố của ông là rất sai lầm nghiêm trọng. Đáng báo động là, chúng tôi được biết rằng Moderna đã bắt đầu được sử dụng để tiêm phòng.

Đây thực sự là một vấn đề quản lý rủi ro. Các bậc cha mẹ cần phải nghiêm túc xem xét rằng COVID-19 ít gây hại cho trẻ hơn nhiều so với bệnh cúm.

Cha mẹ cần phải can đảm và sẵn sàng đánh giá điều này hoàn toàn từ lợi ích so với nguy cơ và tự hỏi: “Nếu con tôi hầu như không bị (nhiễm), nguy cơ di chứng nghiêm trọng hoặc tử vong gần bằng 0, thì tiêm chủng không có lợi ích gì cả, nhưng vắc-xin có thể có tác hại tiềm ẩn và chưa rõ (như đã có báo cáo về phản ứng phụ trên người lớn sau khi tiêm), vậy tại sao con tôi lại phải tiêm loại vắc-xin như vậy?”

Lời kêu gọi thận trọng

Chúng tôi viết bài này để kêu gọi các bậc cha mẹ hành động thận trọng. Đây thực sự là một quyết định về quản lý rủi ro, với tư cách là những người tự do và là các bậc cha mẹ, chúng ta có thể đưa ra quyết định như vậy ở Hoa Kỳ. Hãy nhớ rằng trẻ nhỏ không thể đưa ra sự đồng ý thích hợp (quyền của bệnh nhân được bày tỏ điều trị y tế tự nguyện). Đây là một vấn đề đạo đức quan trọng.

Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 12 tuổi gần bằng không. Chúng ta đã đeo khẩu trang cho trẻ em, đóng cửa trường học và nhốt chúng lại. Vì những chính sách này, tỷ lệ tự tử của người lớn và trẻ em đã tăng mạnh. Và hiện nay chúng ta đang cố gắng tiêm chủng cho trẻ em một loại vắc-xin thử nghiệm mà chúng ta không có dữ liệu về lâu dài của nó. Theo chúng tôi thấy, điều này là rất không an toàn.

Đây thậm chí không phải là liệu vắc-xin có an toàn cho trẻ em hay không, vấn đề là không có cơ sở để tiêm chủng.

Theo chúng tôi, CDC và các chuyên gia như Tiến sĩ Fauci đã sai trong việc phong tỏa, đóng cửa trường học, đeo khẩu trang bắt buộc và các biện pháp hạn chế khác. Khi chúng ta bắt đầu thoát khỏi sự phong tỏa trừng phạt và không lành mạnh cũng như nỗi đau của việc đóng cửa trường học, thì tất cả những biện pháp này đã gây ra một mớ hỗn loạn hoàn toàn cho xã hội của chúng ta.

Các bậc cha mẹ bây giờ cần phải đến và yêu cầu các quan chức y tế và các nhà phát triển vắc-xin (và bất kỳ cơ quan nào có lợi ích liên quan đến việc phát triển các loại vắc-xin này) đưa ra lý do để tiêm chủng cho con mình. Cha mẹ không nên đơn giản chấp nhận điều này, bởi vì không có lý do đáng tin cậy cho việc đó. Buộc những người này đưa ra lý do của họ, và nếu họ không thể làm điều đó, và nếu nó không có ý nghĩa trong đánh giá quản lý rủi ro của riêng bạn, thì đừng nên làm điều đó. Điều này không đơn giản như mua một đôi giày cho trẻ em, nếu có vấn đề gì với vắc-xin, con bạn có thể sẽ mắc các bệnh hiểm nghèo và tàn tật suốt đời, thậm chí tử vong.

Chúng ta chưa thực hiện bất kỳ kiểm tra an toàn nào, cũng như không có bất kỳ nghiên cứu đề xuất nào để có thể thu thập dữ liệu vào thời gian cần thiết. Kích thước của mẫu không bao giờ có thể bù đắp được thời gian. Hãy nhớ đến thảm họa vắc-xin bại liệt năm 1955 và sự cố Cutter; hãy nhớ vắc-xin phòng sốt xuất huyết năm 2017 (Dengvaxia) và hội chứng rò rỉ huyết tương nguy hiểm mà vắc-xin gây ra cho những đứa trẻ đó; hãy nhớ thuốc chủng ngừa H1N1 2009 và chứng ngủ rũ; hãy nhớ đến vắc-xin cho RSV vào những năm 1960; hãy nhớ đến vắc-xin sởi vào những năm 1960 và tác động đối với trẻ em; hãy nhớ đến vắc xin DPT năm 1977, v.v.

Hơn nữa, thật vô lý khi cho rằng “các biến thể” của vi rút có thể lây nhiễm sang trẻ em và gây hại cho chúng, và không có cơ sở nào cho tuyên bố như vậy. Đối với những người cố gắng dọa các bậc cha mẹ sợ hãi bằng những thuật ngữ phi logic và vô lý, rằng một chủng gây chết người có thể xuất hiện giữa các biến thể, chúng tôi nghĩ rằng những người này chỉ đang sử dụng những từ như “có thể” (may, could, might). Chúng tôi không thể tìm thấy bằng chứng để chứng minh cho tuyên bố này. Đây chỉ là suy đoán vô cớ!

Những tuyên bố như vậy là không khoa học và các quyết định dựa trên những tuyên bố như vậy là không dựa trên bằng chứng. Chúng ta cần xem nghiên cứu khoa học thực tế, không chỉ là những suy đoán vô cớ của các chuyên gia y tế trên phương tiện truyền thông, những người thường cố ý tiến hành tổ hợp, xâu chuỗi hoặc bẻ cong các dữ kiện để đạt được mục đích của mình.

Điều đáng lo ngại là ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy bản thân protein đột biến có thể gây bệnhgây chết người, việc tiêm một protein đột biến hoàn chỉnh hoặc mRNA để sao chép mã di truyền, hậu quả tiềm ẩn không thể không khiến người ta lo lắng.

Tiến sĩ Patrick Whelan, một bác sĩ nhi khoa tại Đại học California, Los Angeles, cũng bày tỏ mối quan ngại nghiêm trọng tương tự.

Ông viết: “Tôi lo ngại về khả năng các loại vắc-xin mới nhằm tạo ra khả năng miễn dịch chống lại protein đột biến SARS-CoV-2 (bao gồm vắc-xin mRNA của Moderna và Pfizer) có khả năng gây tổn thương vi mạch cho não, tim, gan và thận theo cách hiện chưa được đánh giá trong các thử nghiệm an toàn của các loại thuốc này.”

Trong một lá thư gửi cho Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) vào tháng 12/2020, ông Whelan nói: “Trước khi bất kỳ loại vắc-xin nào trong số này được chấp thuận sử dụng rộng rãi ở người, điều quan trọng là phải đánh giá tác động của vắc-xin đối với tim ở những đối tượng được tiêm chủng. … Bệnh nhân được tiêm chủng cũng có thể được kiểm tra tổn thương mô ở xa trong sinh thiết da vùng cơ delta…”

“Điều rất quan trọng là phải nhanh chóng ngăn chặn sự lây lan của virus bằng cách gây miễn dịch cho quần thể, nhưng sẽ tồi tệ hơn nếu hàng trăm triệu người phải chịu tổn thương lâu dài đối với não hoặc vi mạch tim do không đánh giá được tác dụng ngắn hạn không mong muốn của vắc-xin dựa trên protein tăng đột biến.”

Con đường đến tương lai

Trẻ em nên có cuộc sống bình thường, và nếu tiếp xúc với COVID-19, chúng ta có thể yên tâm rằng trong phần lớn các trường hợp, trẻ sẽ không chỉ có các triệu chứng nhẹ mà đồng thời phát triển khả năng miễn dịch có được tự nhiên – một khả năng miễn dịch chắc chắn cao hơn so với điều mà có thể do vắc-xin tạo ra. Cách tiếp cận này cũng sẽ đẩy nhanh sự phát triển khả năng miễn dịch cộng đồng rất cần thiết mà nhiều tài liệu đã được viết.

Cho phép tương tác hàng ngày giữa những đứa trẻ, tiếp xúc vô hại và tự nhiên, điều này sẽ không chỉ thúc đẩy khả năng miễn dịch thích ứng mà còn mang lại cho trẻ sự bảo vệ vững chắc hơn chống lại bất kỳ đột biến nào của chính virus. Điều này cũng sẽ giúp hệ thống miễn dịch của trẻ được luyện tập và điều chỉnh mỗi ngày, thay vì khiến trẻ phải chịu sự phong tỏa kéo dài hàng năm và đóng cửa trường học khiến khả năng miễn dịch của trẻ yếu đi như hiện nay.

Trong khi làm điều này, chúng ta cũng đang mạnh mẽ bảo vệ những người già yếu, những người già bình thường và những người mắc các bệnh kèm theo và béo phì. Chúng ta cần phải thực hiện các biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt đối với các viện dưỡng lão và những nơi tập trung tương tự khác (bao gồm cả nhân viên, những người vẫn thường là nguồn lây nhiễm). Một cách tiếp cận khoa học hơn là áp dụng các biện pháp bảo vệ “có mục tiêu” hơn dựa trên độ tuổi và các yếu tố nguy cơ đã biết, đặc biệt là đối với trẻ em.

Chúng tôi yêu cầu Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) và người phát ngôn của các cơ quan chính phủ khác cung cấp thông tin rõ ràng về nguy cơ xã hội đang gia tăng này. Chúng tôi yêu cầu ngừng thử nghiệm vắc-xin trên trẻ em sớm nhất có thể. Điều này không chỉ dựa trên những rủi ro có thể xảy ra khi tiêm chủng đại trà, mà cụ thể hơn, vì như chúng tôi đã nói, trẻ em hoàn toàn không cần phải chủng ngừa COVID-19 .

Ngoài ra, chúng tôi yêu cầu các cơ quan chính phủ làm rõ những rủi ro và lợi ích của những loại vắc-xin đó đối với trẻ em trước khi cấp “giấy phép sử dụng khẩn cấp” vắc-xin khác cho đối tượng dân số này.

Cuối cùng, chúng tôi vẫn nghi ngờ về tính an toàn của các vắc-xin đang được sử dụng, vì FDA đã cấp giấy phép sử dụng khẩn cấp và không phê chuẩn “đơn xin cấp phép sản phẩm sinh học”. Điều này khiến chúng tôi vô cùng lo ngại, vì mức độ an toàn vẫn chưa được đánh giá đầy đủ, về cơ bản có nghĩa là tất cả những người đã tiêm vắc-xin COVID-19 hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm quy mô lớn.

Hiệu quả và kết quả an toàn sẽ được biết đến trong vòng hai đến ba năm, và các tác dụng phụ lâu dài có thể lâu hơn.

Cho phép trẻ em tiếp xúc với một loại thuốc sử dụng khẩn cấp chưa được kiểm tra ngụ ý rằng trẻ em nếu không sử dụng thuốc này thì có nguy cơ rất nặng. Nếu không có dữ liệu để chứng minh rủi ro tiềm ẩn (mà COVID-19 sẽ mang lại) này, bất kỳ đề xuất nào của chuyên gia y tế ngược lại đều là hành vi nguy hiểm. Bây giờ là lúc các cơ quan chính phủ và các chuyên gia y tế của họ ngừng gây hoang mang, và cần thẳng thắn với công chúng, đặc biệt là đối với con em của chúng ta.

Nếu có cơ sở đáng tin cậy, nếu có bằng chứng xác thực thì hãy đem chứng cứ đó ra để chúng tôi xem xét, còn nếu không thì xin vui lòng để con chúng tôi được yên.

Paul Elias Alexander, Howard Tenenbaum, Parvez Dara
(Các quan điểm được trình bày trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trí Thức VN.)

Được đăng trên Epoch Times

Xem thêm: