Chỉ sau một năm, từ 2020 đến 2021, diện tích rừng tự nhiên của Việt Nam đã giảm 107.428 ha, bình quân mỗi ngày mất 294 ha. Diện tích rừng trồng tăng 175.414 ha. Tỷ lệ che phủ của rừng trên toàn quốc chỉ tăng 0,01%.

mat rung dak nong
Phá rừng lấy gỗ làm trụ trồng tiêu ngay trên chính diện tích rừng bị phá, tại huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông, năm 2017. (Ảnh: daksong.daknong.gov.vn)

Cuối tháng 7 vừa qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2021.

Cụ thể, tính đến hết ngày 31/12/2021, diện tích đất có rừng bao gồm cả rừng trồng chưa khép tán là 14.745.201 ha; trong đó, rừng tự nhiên là 10.171.757 ha; rừng trồng là 4.573.444 ha.

Diện tích đất có rừng đủ tiêu chuẩn để tính tỷ lệ che phủ toàn quốc là 13.923.108 ha, tỷ lệ che phủ là 42,02%.

Con số tương ứng về hiện trạng rừng toàn quốc năm 2020 như sau: diện tích đất có rừng bao gồm cả rừng trồng chưa khép tán 14.677.215 ha; trong đó, rừng tự nhiên 10.279.185 ha; rừng trồng 4.398.030ha.

Diện tích đất có rừng đủ tiêu chuẩn để tính tỷ lệ che phủ toàn quốc là 13.919.557 ha, tỷ lệ che phủ là 42,01%.

Theo đó, sau một năm, rừng tự nhiên giảm 107.428 ha; diện tích rừng trồng tăng 175.414 ha. Tỷ lệ che phủ của rừng trên toàn quốc chỉ tăng 0,01%.

Khu vực Tây Nam Bộ có diện tích rừng giảm mạnh nhất, 2.479 ha (giảm 552 ha rừng tự nhiên, giảm 1.927 ha rừng trồng). Diện tích rừng tăng cao nhất là khu vực Tây Bắc, tăng 26.075 ha (rừng tự nhiên tăng 10.177 ha; rừng trồng tăng 15.896 ha).

Tính theo phân loại rừng, rừng tự nhiên biến mất nhiều nhất tại khu vực Tây Nguyên, với diện tích 75.697 ha. Kế đến là khu vực Duyên Hải, giảm 4.266 ha; Bắc Trung Bộ giảm tới 3.998 ha.

Cần lưu ý, theo phân loại rừng của cơ quan quản lý, 10.171.757 ha rừng tự nhiên tính đến hết năm 2021 bao gồm 2.100.785 ha rừng đặc dụng, 4.069.390 rừng phòng hộ và 4.001.582 rừng sản xuất. Diện tích rừng sản xuất đang cao gần gấp 2 lần diện tích rừng đặc dụng và chiếm tới 39% trong tổng diện tích “rừng tự nhiên”.

Theo phân loại quản lý, rừng tự nhiên mất nhiều nhất là nhóm do Tổ chức KH&CN, ĐT, GD, làm mất 25.464 ha; kế đến là nhóm do Ban quản lý rừng đặc dụng, mất 22.354 ha.

Diện tích rừng tự nhiên tăng cao nhất trong nhóm của Tổ chức kinh tế, tăng 26.288 ha; tiếp đến là nhóm của Ban quản lý rừng phòng hộ, tăng 17.683 ha.

Rừng trồng cũng bao gồm ba loại rừng: rừng đặc dụng, phòng hộ và sản xuất. Diện tích rừng trồng tăng cao nhất trong nhóm của UBND xã, tăng 320.401 ha; tiếp đến là Ban quản lý rừng phòng hộ, tăng 17.988 ha. Giảm mạnh nhất trong nhóm của Hộ gia đình, cá nhân trong nước, giảm tới 92.988 ha; tiếp đến là Tổ chức kinh tế, giảm 19.133 ha

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trách nhiệm quản lý nhà nước về lâm nghiệp sau khi công bố hiện trạng rừng thuộc về Tổng cục Lâm nghiệp và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Vĩnh Long