Bài viết của Derek Scissors – một học giả tại Viện Doanh nghiệp Mỹ, nơi ông nghiên cứu tập trung về các nền kinh tế của Trung Quốc và Ấn Độ; cũng như quan hệ kinh tế của Mỹ với châu Á. 

Embed from Getty Images

Các điểm chính

  • Số liệu về COVID-19 của Trung Quốc không hợp lý về mặt logic số học. 
  • Cuối tháng Một, truyền thông Trung Quốc đưa tin về dòng người rời Vũ Hán trước lệnh cách ly. Nếu sử dụng một con số thấp hơn của họ, cùng tỷ lệ nhiễm bệnh của những người di cư và thời gian đi lại trước lệnh phong tỏa toàn quốc, ước tính đã có 2,9 triệu người nhiễm bệnh [ngoài Hồ Bắc].
  • Điều này một phần do Trung Quốc có dân số khổng lồ. Có thể còn hàng chục triệu người nhiễm COVID-19 nhưng được cho là mắc bệnh đường hô hấp. Cùng với việc kiểm duyệt hà khắc của chính quyền ĐCSTQ, quần thể đó có thể che giấu hàng chục nghìn ca tử vong.

Giới thiệu

Vào đầu tháng Tư, số liệu thống kê cho thấy số người mắc COVID-19 trên toàn cầu lên tới một triệu. Cùng lúc đó, Trung Quốc phủ nhận những cáo buộc của tình báo Mỹ và các nước khác rằng họ đã dối trá về mức độ bùng phát của dịch bệnh. 

Tuy nhiên, với quy mô dân số khổng lồ, gần như có thể chắc chắn rằng chính quyền Trung Quốc đã đưa thông tin sai lệch về những gì đã xảy ra bên ngoài Vũ Hán, và điều này thậm chí còn khủng khiếp hơn thông tin sai lệch về những gì đã xảy ra bên trong thành phố này. 

Bằng một tiến trình đánh giá thận trọng, bắt đầu với những con số do ĐCSTQ cung cấp, cho thấy thế giới thật sự đã có hơn 1 triệu ca nhiễm từ nhiều tuần trước đó, và hầu hết là ở Trung Quốc.  

Phân tích số liệu ĐCSTQ cung cấp

Bắt đầu từ một bài báo ngày 27/1 của truyền thông nhà nước Trung Quốc: mặc dù con số đã được làm nhỏ hơn rất nhiều, vẫn có thể nhận thấy Trung Quốc đã nói dối về quy mô khổng lồ của dịch COVID-19 bên ngoài tỉnh Hồ Bắc. Bài báo viết:

  • 5 triệu người đã rời Vũ Hán trong ba tuần trước khi phong toả.
  • 30 – 40%, tức 1,5 đến 2 triệu người đã rời Hồ Bắc hoàn toàn, và
  • Khoảng 465.000 người bay tới 10 thành phố được liệt kê bên ngoài Hồ Bắc.

Trong ba mục trên, mục thứ 3 khá khớp với khoảng trung bình 520.000 người hàng tháng bay từ tỉnh Hồ Bắc, do đó đặt nó riêng ra một bên. 

Con số đầu tiên quá tròn trịa: 5 triệu là một số lượng dễ dàng được thốt ra bởi một chính trị gia khi biết rằng sự thật có thể là “nhiều triệu”, nhưng không thể nói bừa. Kỳ nghỉ Tết Nguyên đán năm 2018, bài báo cho biết có khoảng 2,4 triệu người đã rời Vũ Hán. Mặc dù không có dữ liệu của năm 2019, nhưng có thể ước tính con số của năm 2020 vào khoảng 3 triệu. Có thể là nhiều hơn, như 4 triệu, nhưng 5 triệu thì quá cao. 

Số liệu thứ hai là số người rời tỉnh Hồ Bắc. Một điểm đến hàng đầu khi rời Hồ Bắc là Hà Nam, nơi có dân số lớn nhất trong những tỉnh liền kề và là thành phố có nhiều di dân tới Vũ Hán nhất. Số người di cư từ thành phố này chiếm khoảng 1,54% dân số Vũ Hán, khoảng 170.000 người.

Biểu đồ các chuyến bay trong bài báo chỉ ra những thành phố du lịch nội địa nổi tiếng khác. Nếu chưa tới nửa triệu người bay tới những nơi đó và có khả năng nhất là thành phố hàng đầu tiếp nhận không quá 170.000 người, thì không chắc có tới 1,5 triệu người đã rời tỉnh Hồ Bắc, chứ chưa nói đến con số 2 triệu. Vậy ta lấy con số khoảng 1,2 triệu.

Vượt quá một triệu người 

Có bao nhiêu người trong số này này bị nhiễm bệnh phụ thuộc phần lớn vào thời điểm dịch bệnh bắt đầu. Ngày 30/12 là khi Vũ Hán lần đầu kêu cứu. Ngày 17/11 được cho là phát hiện ca nhiễm đầu tiên. Vậy ngày 12/12 có thể là ước đoán tốt nhất về thời điểm dịch bệnh bắt đầu. 

COVID-19 bắt đầu lây lan trong ít nhất 4 tuần, có thể là 6 tuần, và có thể là 9 tuần trước khi lệnh phong toả diễn ra (Cần phải nói rằng không một nước nào có thể lập tức biết được điều gì đang xảy ra.) 

Con số những di dân bị nhiễm bệnh sẽ rất thấp nếu giai đoạn xuất hành [rời khỏi Vũ Hán/ Hồ Bắc] tập trung vào cuối tháng 12, cao hơn nếu tập trung vào giữa tháng 1. Việc người dân lũ lượt rời khỏi thành phố ngay trước thời điểm phong toả cho thấy tỷ lệ các di dân có khả năng bị nhiễm bệnh cao hơn. Trung Quốc không cung cấp dữ liệu toàn diện về xét nghiệm, và tỷ lệ nhiễm bệnh sau này mới đưa ra có nhiều nghi vấn, nhất là khi so sánh với các nước khác. 

Hàn Quốc là nước đầu tiên xét nghiệm tích cực và minh bạch, cung cấp thông tin tham khảo tốt nhất về tỷ lệ nhiễm bệnh nếu xét nghiệm được thực hiện và thông báo sớm. Tỷ lệ dương tính với virus corona ở Hàn quốc đã giảm khi mở rộng xét nghiệm trong khi các nỗ lực kiềm chế virus được đồng thời tiến hành. Ngày 6/4, tỷ lệ đó là 2,3%.

Với ước tính 1,2 triệu người rời Hồ Bắc và tỷ lệ nhiễm bệnh 2,3% (mức hữu dụng thấp nhất có thể), số người nhiễm bệnh rời Hồ Bắc rơi vào khoảng 27.000 người trong giai đoạn trước lệnh phong toả. Tuy nhiên, vào hôm 6/4 (tức hơn 2 tháng sau đó), Trung Quốc báo cáo chỉ có 15.200 ca nhiễm bên ngoài Hồ Bắc.

Mức độ mà Trung Quốc báo cáo có thể được tạo ra bằng cách cắt đi một nửa tỷ lệ nhiễm đã rất thấp của Hàn Quốc, nhưng thực tế không có biện giải nào để làm như vậy. Tệ hơn, nó còn không tính đến một ai trong những người di cư Vũ Hán bị nhiễm bệnh. Con số của Trung Quốc là không hợp lý.

Thậm chí, nếu ước tính 27.000 ca nhiễm là quá cao, hãy nhìn sang những điểm bùng phát sớm ở Đức, Ý, và Tây Ban Nha. Chỉ mất gần 4 ngày để từ 15.000 ca (con số tương đương số ca nhiễm bên ngoài Hồ Bắc ở Trung Quốc ngày 6/4) lên 27.000 ca. Thậm chí tại Mỹ, chỉ mất 2 ngày. 

Nhà bình luận an ninh quốc gia Mỹ: “Hầu hết thế giới không hiểu ĐCSTQ tà ác đến đâu

Điều quan trọng là Trung Quốc không hề nhắc đến những ngày các ca nhiễm “nhập khẩu” từ Hồ Bắc di chuyển thoải mái khắp Trung Quốc. Các di dân từ Vũ Hán có thể tới mọi nơi ở Trung Quốc mà không có bất kỳ hạn chế nào khi lệnh cấm di chuyển chưa được ban bố. Thành phố Ôn Châu và những nơi khác bắt đầu phong tỏa trong tuần từ 2/2. Nếu tính từ 22/1 (trước lệnh phong toả 1 ngày ở Vũ Hán) đến khi những nơi khác phong toả là 11 ngày.

Khi các ca bệnh ở Ý chạm tới con số 27.000 người, 11 ngày sau, nó đã tăng gấp ba cho dù lệnh cấm đi lại đã được áp đặt một tuần trước đó. Từ 27.000 ca, các ca bệnh ở Đức cũng tăng hơn gấp ba lần trong 11 ngày sau; Tây Ban Nha tăng gấp bốn lần, và số người nhiễm bệnh ở Mỹ thì tăng gấp đôi tốc độ của Tây Ban Nha.

Trên thực tế, thời gian di chuyển trung bình của các ca nhiễm từ Vũ Hán/ Hồ Bắc tại các nơi khác ở Trung Quốc rõ ràng là dài hơn 11 ngày. 

Tại thời điểm người viết sử dụng 27.000 ca bệnh làm điểm khởi đầu, số ngày di chuyển tối đa ở Ý là 21 ngày. Sau nhiều tuần cấm đi lại trên toàn quốc và làm chậm sự lây nhiễm, Ý từ 27.000 ca sau 21 ngày đã lên 130.000 ca. Đức và Tây Ban Nha còn tệ hơn Ý trong đoạn thời gian ngắn hơn, và Mỹ thì tệ hơn Tây Ban Nha. Điều đó khiến 130.000 ca trở thành một ước tính thận trọng khác. 

Đáng lưu ý, chỉ 4 thành phố nhận nhiều các chuyến bay từ Vũ Hán nhất theo báo cáo của truyền thông nhà nước Trung Quốc đã bằng dân số Ý. Riêng dân số tỉnh Hà Nam đã lớn hơn gấp rưỡi dân số Ý, còn dân số Trung Quốc gấp 23 lần dân số Ý. 

Như vậy, số liệu thực về các ca bệnh của Trung Quốc phải cao hơn đáng kể so với bất cứ nơi nào khác do quy mô dân số. Tương ứng với 130.000 ca ở Ý và quy mô dân số Ý, ít nhất phải có hơn 2,9 triệu ca nhiễm ngoài tỉnh Hồ Bắc. 

Kiện ĐCSTQ vì đã gây ra dịch bệnh: Đâu là cơ sở pháp lý?

Hàng triệu ca nhiễm có thể xảy ra?

Có ý kiến cho rằng Trung Quốc hiển nhiên đang nói dối nhưng không đến mức đó, vì ĐCSTQ không thể che giấu 2-3 triệu ca nhiễm bệnh. Tất nhiên là họ có thể. 

Tại Mỹ, gần 20 triệu người mắc các dạng cúm trước thời điểm cuối tháng Một (trước khi COVID-19 lan rộng ở đây) và còn 2 tháng nữa của mùa cúm hàng năm, trong khi dân số thì bằng 1/4 dân số Trung Quốc. Vậy các loại bệnh về đường hô hấp khác của Trung Quốc có thể vượt quá 100 triệu, dễ dàng che giấu 2,9 triệu ca nhiễm COVID-19.

Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC) ước tính có 12% số ca ở Mỹ phải nhập viện vì COVID-19, và đây là con số được cho là thấp.

Vậy với 2,9 triệu người nhiễm bệnh, 12% sẽ là 350.000 giường bệnh. Để cân bằng hơn với những con số báo cáo một cách dè dặt của Mỹ, số người nhập viện thực sự của Trung Quốc phải gấp đôi, lên tới 700.000 giường. Trung Quốc có khoảng sáu triệu giường bệnh.  

Tương ứng với số ca nhiễm, số ca tử vong tại Trung Quốc cũng không chính xác và thực tế phải cao hơn con số báo cáo. Tỷ lệ tử vong tại Hồ Bắc phải tương đối cao vì rõ ràng không có sự chuẩn bị và thời điểm ban đầu nó đã nhanh chóng “vỡ trận.” Tỷ lệ tử vong được báo cáo ở Hồ Bắc là 4,7%. Nếu nhân tỷ lệ này ra cả nước (tất nhiên đây chỉ là một sự cường điệu), sẽ có tới 136.000 ca tử vong trong hơn 3 tháng vừa rồi. 

Tổng kết

Mục đích của ĐCSTQ là không có ước tính nào về các ca nhiễm COVID-19 của Trung Quốc có thể hoàn toàn thuyết phục. 

Con số 2,9 triệu ca nhiễm bệnh được bài viết đưa ra là ước tính dựa vào thông tin do truyền thông nhà nước cung cấp, áp dụng tỷ lệ nhiễm bệnh thấp nhất với số ngày các ca nhiễm đi lại trong cộng đồng giảm thiểu nhất có thể, cùng dân số 1,39 tỷ người. 

Hoặc bạn có thể tin rằng 1,2 triệu người di chuyển từ vùng dịch, được tự do đi lại trong nhiều tuần, nhưng chỉ lây bệnh cho hơn 15.000 người trên toàn quốc.

Derek Scissors

(Xuân Lan biên dịch và biên tập)

Xem bài viết gốc tại đây.

Xem thêm: