Trong 5000 năm văn hóa Trung Hoa, các bậc thánh hiền nhiều vô kể, người tài giỏi có khả năng và trí tuệ đặc biệt lại càng nhiều không kể xiết. Nếu nói rằng những vị thánh nhân tạo thành mặt trời thì những người tài giỏi có khả năng và trí tuệ đặc biệt chính là ánh trăng thay phiên nhau thắp sáng bầu trời của lịch sử Trung Hoa cổ đại.

cổ nhân
(Hình minh họa: Qua Obiectivvaslui.ro)

Các bậc thánh hiền, trí giả ấy đã để lại rất nhiều những tinh hoa, những bài học và cũng là những cảnh giới nhân sinh cao cho thế nhân. Dưới đây là 10 đại trí tuệ kinh điển, cũng là 10 cảnh giới nhân sinh cao thượng được lưu truyền suốt hàng ngàn năm qua.

1. “Đại trí nhược ngu, vật thị thông minh”

“Đại trí nhược ngu, vật thị thông minh” ý chỉ người trí tuệ giả ngu, không cậy mình thông minh.

“Đại trí nhược ngu” là câu thành ngữ của Trung Hoa cổ đại. Câu thành ngữ này có nguồn gốc từ “Hạ Âu Dương thiếu suất trí sĩ khải” của Tô Đông Pha đời nhà Tống: “Đại dũng nhược khiếp, đại trí nhược ngu” là có ý nói rằng người có tài trí cao nhưng không để lộ tài năng, vẻ ngoài biểu hiện ra giống như một người ngu dốt nhưng thực ra lại là người trí tuệ.

Lão Tử nói: “Đại âm hi thanh, đại tượng vô hình” (Tiếng lớn nghe không thấy. Tượng lớn, không có hình) đều là có ý tứ này. Người có thể “đại trí nhược ngu” là người đã thông suốt, đã giác ngộ mới có thể làm được. Đây là thể hiện công phu và bản lĩnh của bậc đại trí.

Thời Chiến Quốc, đại tướng Vương Tiễn của nước Tần phụng mệnh dẫn quân xuất chinh. Trước khi xuất chinh, ông liền tấu lên Tần Vương thỉnh cầu được ban nhà cửa ruộng vườn.

Tần Vương nói: “Tướng quân cứ yên tâm xuất chinh, hà tất gì phải đam tâm như thế?”

Vương Tiễn đáp: “Làm tướng quân của đại vương, dù có công cuối cùng cũng không được phong tước, cho nên nhân dịp này, thần dám thỉnh cầu đại vương ban cho điền viên làm gia nghiệp cho con cháu sau này.”

Tần Vương nghe xong, cười lớn và đáp ứng thỉnh cầu của Vương Tiễn.

Vương Tiễn xuất quân đến Đồng Quan, lại phái sứ giả quay về thỉnh cầu được ban ruộng tốt. Tần Vương không những không tức giận mà còn đáp ứng một cách vui vẻ. Một thuộc hạ thân thiết của Vương Tiễn khuyên ông không nên tham lam và trọc giận Tần Vương như vậy.

Vương Tiễn không biến đổi sắc mặt, thẳng thắn nói với thuộc hạ: “Ta cũng không phải là người tham lam, chỉ là vì Tần Vương quá đa nghi. Hiện tại Tần Vương giao cho ta quản lý toàn bộ quân đội, thì trong lòng tất có bất an. Cho nên, ta hướng đến Tần Vương thỉnh cầu ruộng đất để lại cho con cháu thật ra là vì để Tần Vương an tâm thôi. Như thế, Tần Vương sẽ không hoài nghi ta có lòng tạo phản.”

2. “Đạm bạc điềm thích, minh tâm lập chí.”

Không quên tiểu tiết mới có thể thành tựu đại sự
(Hình minh họa: Qua Pinterest.com)

“Đam bạc điềm thích, minh tâm lập chí” ý nói, điềm nhiên không màng danh lợi, tâm sáng lập chí.

“Đạm bạc minh chí” (Không màng danh lợi, định rõ chí hướng) là câu ra đời đầu tiên trong “Hoài Nam Tử: Chủ thuật huấn” của Lưu An, thời đầu Tây Hán.

Trong “Giới tử thư” của Gia Cát Lượng cũng có trích dẫn: “Phi đạm bạc vô dĩ minh chí, phi ninh tĩnh vô dĩ trí viễn” (Không đạm bạc thì không thể sáng cái chí, không yên lặng thì không thể nghĩ được xa). “Đạm bạc” là một loại tư tưởng cổ xưa của Đạo gia. Lão Tử cũng giảng: “Điềm đạm vi thượng, thắng nhi bất mỹ” (Điềm đạm là thượng sỹ, thắng cũng không đắc ý)

Nếu như cái tâm của một người không thanh tịnh, ham muốn không giảm xuống thì sẽ khiến cho cái chí của người ấy không sáng tỏ kiên định. Người mà không an định thanh tĩnh thì không thể thực hiện được lý tưởng cao xa, cũng không chịu khó chịu khổ mà học được.

3. “Tích thủy xuyên thạch, quý tại kiên trì”

“Tích thủy xuyên thạch, quý tại kiên trì”, ý nói nước chảy đá mòn, cái quý là ở sự kiên trì.

Câu này có nguồn gốc từ cuốn “Hạc lâm ngọc lộ” của La Đại Kinh thời Tống: “Nhất nhật nhất tiễn, thiên nhật thiên tiễn, thằng cứ mộc đoạn, thủy tích thạch xuyên” (Một ngày một đồng, nghìn ngày nghìn đồng, thừng cưa gỗ đứt, nước chảy đá mòn).

Triều Tống, Trương Quai Nhai làm huyện lệnh huyện Sùng Dương. Một hôm ông nhìn thấy một vị tiểu quan lại đi từ kho của phủ ra với vẻ bối rối, trong khăn chùm đầu có cất giấu một lượng tiền. Trương Quai Nhai hạ lệnh tra khảo.

Tiểu quan lại không phục nói rằng: “Một đồng tiền thì tính toán làm gì?Ông chỉ có thể đánh ta, không thể giết ta được.”

Trương Quai Nhai tức giận nói: “Một ngày một đồng, ngàn ngày ngàn đồng, thừng cưa gỗ đứt, nước chảy đá mòn. Chém đầu!”

Có một câu chuyện xưa kể về sử học gia Đàm Thiên, tinh thần kiên trì cố gắng không ngừng của ông khiến người đời cảm động.

Năm 1621, niên hiệu Thiên Khải triều nhà Minh, Đàm Thiên 28 tuổi thì mẹ ông qua đời. Đàm Thiên ở nhà chịu tang, đọc rất nhiều thư sách của triều Minh và thấy trong đó có rất nhiều sai sót và sơ suất. Bởi vậy, ông quyết tâm lập chí soạn một bộ sử đáng tin, phản ánh đúng sự thật lịch sử nhà Minh.

Trong suốt 26 năm sau đó, ông trường kỳ mang vác hành lý đi bộ trăm dặm đến các nơi. Đến nơi nào cũng cũng viết và cuối cùng sau 5 năm thì ông hoàn thành bản sơ thảo. Về sau, ông sửa chữa, hiệu đính suốt 26 năm không ngừng cố gắng, trải qua 6 bản thảo mới hoàn thành được bộ biên niên sử “Quốc Các” gồm 500 vạn chữ chia thành 104 cuốn.

4. “Hậu tích bạc phát, dĩ nhu khắc cương”

chu dịch
(Hình minh họa: Qua kknews.cc)

“Hậu tích bạc phát, dĩ như thắng cương” ý nói, tích lũy nhiều dùng ít một, lấy nhu thắng cương

“Hậu tích bạc phát” nguyên là câu “Quân tử hậu tích nhi bạc phát”. Trong “Giá thuyết tống Trương Hổ” của Tô Đông Pha có câu: “Bác quan nhi ước thủ, hậu tích nhi bạc phát”. Ý nói rằng, đọc sách nhiều đến đâu cũng chỉ có thể chắt lọc tinh hoa mà giữ lại, tích lũy nhiều đến đâu cũng chỉ có thể dùng từ từ từng chút một.

Học tập hay làm việc đều là công việc gian nan, cần một thời gian dài chuẩn bị, tích lũy, chờ đợi thời cơ, còn phải không sợ thất bại mới có thể có thành tựu to lớn.

“Dĩ nhu khắc cương” ý nói dùng thái độ mềm mỏng, nhu hòa để đi đối đãi, khắc chế cái cứng rắn. Học thuyết của Đạo gia cũng là chủ trương thuận theo tự nhiên, vạn vật tương sinh tương khắc.  Không phải lúc nào cũng có thể dùng cái “cứng rắn” để đi giải quyết vấn đề, dùng “mềm mỏng, nhu hòa” mới thắng được.

5. “Hải nạp bách xuyên, bao dung hàm tàng”

“Hải nạp bách xuyên, bao dung hàm tàng”, ý nói biển có thể dung nạp nước của hàng trăm ngàn con sông, dung nạp được tất cả.

“Hải nạp bách xuyên” có nguồn gốc từ câu “Hình khí bất tồn, phương thốn hải nạp” trong “Tam quốc danh thần tự tán” của Viên Hoành, nhà Tấn. Lý Chu Hàn chú giải: “Phương thốn chi tâm, như hải chi nạp bách xuyên dã, ngôn kỳ bao hàm nghiễm dã”, ý chỉ biển cả có thể dung chứa nước của hàng trăm hàng ngàn con sông, có thể dung chứa được trăm ngàn sông nên mới thành ra to lớn. Ý muốn nói rằng, khoan dung, rộng lượng, ý chí phóng khoáng là biểu hiện của một người có tu dưỡng.

Lâm Tắc Từ (tướng nhà Thanh) cũng nói: “Hải nạp bách xuyên, hữu dung nãi đại, bích lập thiên nhận, vô dục tắc cương“, ý nói biển lớn dung nạp trăm nghìn dòng sông, tấm lòng bao dung mới có thể trở nên vĩ đại, vách núi nghìn trượng sừng sững, không mang dục vọng thì có thể giữ mình cương trực. “Hải nạp bách xuyên” là tư tưởng được đề cao trong suốt lịch sử hàng ngàn năm qua.

An Hòa (dịch và t/h)

Xem thêm: