Ít người biết rằng những cái gọi là trào lưu, phong trào tư tưởng “tự do”, “giải phóng” thời hiện đại đều mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa cộng sản. Nó rất giỏi ngụy biện, biến hóa và lừa gạt con người, khiến người ta hết lần này đến lần khác bị mê hoặc trong những khẩu hiệu bề ngoài rất dễ nghe, không rõ là mình ủng hộ điều gì khi thông qua những chính sách và tư tưởng này, cuối cùng chìm đắm ngày càng sâu vào thế giới quan với những thước đo được xây dựng theo tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Cục diện gia đình truyền thống bị hủy hoại, tư tưởng con người bị biến dị mà chúng ta chứng kiến ngày nay, kỳ thực là kết quả của sự thực thi âm thầm từng bước chủ nghĩa cộng sản trong gần 200 năm qua.

Các loại trào lưu tư tưởng biến dị của chủ nghĩa cộng sản bắt đầu từ thế kỷ 19. Sau hơn 100 năm lột xác, biến hóa ở phương Tây, cuối cùng, chúng đã bùng phát trên quy mô lớn ở Mỹ vào những năm 1960.

Thời gian này, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx mới và các loại hình thái ý thức cấp tiến, các phong trào văn hóa xã hội bị tư tưởng cộng sản thao túng đã xuất hiện ở Mỹ, như: Hippie – trào lưu phản văn hóa truyền thống, phong trào cấp tiến cánh tả mới, phong trào nữ quyền và các trào lưu tư tưởng cách mạng tình dục… Những trào lưu tư tưởng này dâng cao mãnh liệt như thủy triều, tấn công dữ dội và ăn mòn hệ thống giá trị truyền thống và cơ chế xã hội Mỹ cũng như thể chế chính trị Mỹ.

Sau đó, những trào lưu này nhanh chóng trở nên phổ biến ở châu Âu. Quan niệm xã hội, quan niệm gia đình, quan niệm về tình dục và giá trị văn hóa đều trở nên biến dị rất lớn. Cùng lúc đó, các phong trào về quyền đồng tính luyến ái cũng không ngừng dâng cao. Điều này dẫn đến các quan niệm giá trị gia đình truyền thống phương Tây không ngừng suy yếu và các mô hình gia đình truyền thống dần dần suy thoái. Đồng thời, những rối loạn trong xã hội cũng gây nên hàng loạt vấn đề xã hội nghiêm trọng như văn hóa phẩm khiêu dâm tràn lan, hiện tượng nghiện hút, đạo đức hôn nhân sụp đổ, tỷ lệ tội phạm trong thanh thiếu niên gia tăng, các nhóm người hưởng phúc lợi xã hội tăng thêm, v.v..

Mục lục:

  • Cổ xúy giải phóng tình dục
  • Bàn tay của chủ nghĩa cộng sản đằng sau phong trào nữ quyền
  • Hậu quả của phong trào nữ quyền
  • Đồng tính luyến ái và định nghĩa lại khái niệm gia đình
  • Cổ xúy quyền ly hôn và quyền phá thai
  • Dùng chế độ phúc lợi để khuyến khích gia đình đơn thân
  • Cổ xúy văn hóa biến dị

Cổ xúy giải phóng tình dục

Giải phóng tình dục (cách mạng tình dục) bắt đầu ở Mỹ vào những năm 1960, sau đó nhanh chóng lan ra khắp thế giới, đây là một đòn giáng mang tính hủy diệt đối với quan niệm đạo đức truyền thống của nhân loại, nhất là quan niệm gia đình truyền thống và đạo đức về tình dục.

Trong kỳ trước, chúng ta đã nhìn lại lịch sử để thấy được rằng nguồn gốc của trào lưu giải phóng tình dục này là từ Liên Xô, mà sâu xa hơn là từ lý luận phá bỏ mọi loại tư hữu của chủ nghĩa cộng sản. Sau khi thai nghén tại các quốc gia cộng sản xong, trào lưu giải phóng tình dục nhanh chóng tàn phá xã hội phương Tây. Lấy phong trào “Tự do tình ái” – cũng gọi là chủ nghĩa cấp tiến về tình dục – làm bàn đạp, nó dần dần xâm nhập và làm tan rã quan niệm truyền thống, chủ trương hoạt động tình dục dưới bất cứ hình thức nào cũng không nên bị can thiệp, hoạt động tình dục là của cá nhân, kể cả hôn nhân, nạo phá thai, các hành vi dâm loạn đều không cần phải chịu sự chế ước của chính phủ, pháp luật, hay xã hội.

Những người đi theo Charles Fouries và John Humphrey Noyes (Xem lại phần “Gen dâm loạn của chủ nghĩa cộng sản” trong kỳ trước) là những người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “tự do tình ái”.

Những người ủng hộ chủ yếu cho phong trào “tự do tình ái” vào thời cận đại đa phần đều là những người theo chủ nghĩa xã hội hoặc những người chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Chẳng hạn như Edward Carpenter, nhà triết học xã hội chủ nghĩa tiên phong cho phong trào “tự do tình ái” ở Vương quốc Anh, cũng là người khởi xướng phong trào quyền đồng tính luyến ái. Nhà triết học người Anh Bertrand Russell, người khởi xướng nổi tiếng nhất cho phong trào này là người theo chủ nghĩa xã hội công khai, cũng từng là thành viên của Hội Fabian. Ông tuyên bố đạo đức không nên hạn chế sự khoái lạc bản năng của con người, cổ xúy cho hành vi quan hệ tình dục ngoài hôn nhân.

Emile Armand, người đi tiên phong cho phong trào “tự do tình ái” ở Pháp thời kỳ đầu là người theo chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ, sau đó dựa trên chủ nghĩa cộng sản xã hội không tưởng của Fourier mà sáng lập nên chủ nghĩa vô chính phủ cá nhân ở Pháp (một loại chủ nghĩa xã hội mở rộng), cổ xúy cho việc lạm dụng tình dục, đồng tính luyến ái, song tính luyến ái. Chummy Fleming, người theo chủ nghĩa vô chính phủ (một nhánh khác của chủ nghĩa xã hội) là người khai sáng cho phong trào “tự do tình ái” ở Úc.

Một “thành quả” quan trọng của phong trào “tự do tình ái” ở Mỹ là tạp chí Playboy được sáng lập vào năm 1953. Tạp chí này sử dụng loại giấy tráng cao cấp với những hình ảnh rực rỡ sắc màu và xa xỉ, mang đến cho người xem một cảm giác sai về “tính nghệ thuật”. Những nội dung khiêu dâm, vốn bị coi là dung tục, hạ lưu trong quan niệm truyền thống bỗng chốc nhảy vào xã hội chủ lưu, rồi trở thành một tạp chí giải trí “cao cấp”. Hơn nửa thế kỷ nay, nó đã đem chất độc “tự do tình ái” reo rắc lên con người trên khắp thế giới, mặc sức tấn công vào quan niệm đạo đức truyền thống về tình dục.

Đến giữa thế kỷ 20, cùng với sự thịnh hành của văn hóa Hippie, các quan niệm “tự do tình ái” được chấp nhận phổ biến, cuộc “cách mạng tình dục” cũng chính thức xuất hiện. Cụm từ “cách mạng tình dục” lần đầu được đề xuất bởi Wilhelm Reich, đảng viên Đảng Cộng sản Đức, người sáng lập phương pháp phân tích tinh thần chủ nghĩa cộng sản. Ông đã kết hợp phân tích tinh thần chủ nghĩa Marx và Freud, và cho rằng Marx đã giải phóng con người khỏi “sự bức hại về kinh tế’, còn Freud đã giải phóng con người khỏi sự “áp bức về tình dục”.

Một người khác đặt nền móng cho lý luận “giải phóng tình dục” là Herbert Marcuse theo trường phái Frankfurt. Trong phong trào phản văn hóa ở phương Tây vào những năm 1960, khẩu hiệu “Make love, not war” (hãy làm tình, đừng đánh nhau) của ông ta đã khiến quan niệm giải phóng tình dục ăn sâu vào tư tưởng con người.

Kể từ đó, cùng với ấn phẩm của nhà động vật học Alfred Kinsey về “Hành vi tính dục của nam giới” và “Hành vi tính dục của nữ giới” và việc sử dụng phổ biến thuốc tránh thai, quan niệm giải phóng tình dục đã bùng phát ở phương Tây vào thập niên 60. Điều đáng chú ý là các học giả đương thời đã phát hiện ra tác phẩm của Alfred Kinsey về hành vi tình dục của nhân loại đã sử dụng các thủ pháp phóng đại, hoặc đơn giản hóa để bóp méo số liệu thống kê, khiến rất nhiều người hiểu nhầm rằng những hành vi quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, quan hệ tình dục đồng tính là hiện tượng phổ biến trong xã hội, khiến cho phong trào giải phóng tình dục, đồng tính luyến ái càng như được đổ thêm dầu vào lửa. [1]

Bỗng chốc, “giải phóng tình dục” đã trở thành giá trị quan đạo đức thời thượng trong xã hội hiện đại. Trong giới thanh thiếu niên, quan hệ tình dục bừa bãi được coi là bình thường, những cô gái mười mấy tuổi nếu dám thừa nhận mình là trinh nữ thì sẽ bị bạn bè cười nhạo. Các số liệu cho thấy, từ năm 1954 đến năm 1963, trong số người Mỹ đủ 15 tuổi (cũng là lứa thanh niên trong những năm 1960), có 82% đã có quan hệ tình dục trước hôn nhân trước 30 tuổi. [2] Đến những năm 2010, số cô dâu còn trinh trước khi kết hôn chỉ chiếm tỷ lệ 5%; 18% các cô dâu trước khi kết hôn đã có từ 10 bạn tình trở lên. [3] “Tình dục” trở thành chủ đề thịnh hành trong văn hóa đại chúng, các “tác phẩm văn học” thu hút độc giả bởi những đoạn miêu tả về tình dục tràn ngập thị trường, những bộ phim hạng ba “không dành cho trẻ em” được hâm mộ ở khắp các rạp chiếu phim lớn.

Bàn tay của chủ nghĩa cộng sản đằng sau phong trào nữ quyền

Phong trào nữ quyền là một công cụ quen thuộc mà chủ nghĩa cộng sản lợi dụng để phá hoại gia đình. Phong trào nữ quyền thời kỳ đầu (cũng gọi là làn sóng nữ quyền thứ nhất) khởi phát ở châu Âu vào thế kỷ 18, chủ trương phụ nữ nên được hưởng những đãi ngộ bình đẳng như nam giới về các mặt giáo dục, việc làm và chính trị. Đến giữa thế kỷ 19, trung tâm của phong trào nữ quyền từ châu Âu chuyển hướng sang Mỹ.

Khi làn sóng nữ quyền thứ nhất xảy ra, nền tảng xã hội trong quan niệm gia đình truyền thống vẫn thịnh hành như trước, phong trào nữ quyền này cũng không chủ trương trực tiếp thách thức gia đình truyền thống. Những người theo chủ nghĩa nữ quyền có ảnh hưởng thời đó, như Mary Wollstonecraft – người Anh ở thế kỷ 18, Margaret Fuller – người Mỹ ở thế kỷ 19, John Stuart Mill – người Anh ở thế kỷ 19, đều chủ trương phụ nữ sau khi kết hôn nên lấy gia đình làm trọng, tiềm năng của phụ nữ chủ yếu phát triển trong môi trường gia đình, phụ nữ trau bồi bản thân là để làm tốt công việc gia đình (như giáo dục con cái, quản lý gia đình…). Nhưng những phụ nữ đặc biệt giỏi về lĩnh vực nào đó thì không nên chịu bất cứ trở ngại nào, được tự do phát huy tài năng của họ, có thể sánh với nam giới.

Sau những năm 1920, khi luật pháp các nước thừa nhận quyền bầu cử của phụ nữ, phong trào nữ quyền thứ nhất dần dần thoái trào. Sau đó, do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế và Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, phòng trào nữ quyền này, về cơ bản, đã lặng lẽ chấm dứt.

Cùng lúc đó, chủ nghĩa cộng sản cũng sớm gieo rắc mầm mống hủy hoại hôn nhân, gia đình và quan niệm đạo đức về tình dục. Những nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng thời kỳ đầu vào thế kỷ 19 đã định ra phương hướng cho phong trào nữ quyền cấp tiến hiện đại. François Marie Charles Fourier, người được coi là “cha đẻ của chủ nghĩa nữ quyền” tuyên bố hôn nhân biến phụ nữ thành tài sản tư hữu. Robert Owen mạt sát hôn nhân là “tội lỗi”. Tư tưởng của những nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng này được một loạt những người theo chủ nghĩa nữ quyền kế thừa và phát triển, như Frances Wright – người theo chủ nghĩa nữ quyền vào thế kỷ 19 – kế thừa tư tưởng của Fourier, chủ trương ủng hộ tự do tình dục cho phụ nữ.

Nhà hoạt động nữ quyền người Anh Anna Wheeler kế thừa tư tưởng của Owen, kịch liệt phê phán hôn nhân biến phụ nữ thành nô lệ. Đồng thời, các nhà hoạt động nữ quyền xã hội chủ nghĩa cũng là bộ phận cấu thành quan trọng của phong trào nữ quyền thế kỷ 19. Các tờ báo về nữ quyền có ảnh hưởng nhất ở Pháp lúc đó như tờ nhật báo chủ nghĩa nữ quyền đầu tiên ở Pháp – báo “Tiếng nói phụ nữ” (La Voix des femmes, sau này đổi tên thành La Tribune des Femmes), rồi báo “Phụ nữ tự do” (La Femme libre), “Luận bàn phụ nữ”, “Phụ nữ và chính trị” (La Politique des Femmes), “Bình luận phụ nữ”, v.v.. Nhà sáng lập các tờ báo này đều là những người theo tư tưởng của Fourier hoặc Henri de Saint-Simon, một người chủ trương phái hiện đại. Do mối quan hệ mật thiết giữa chủ nghĩa nữ quyền và chủ nghĩa xã hội khi đó, nên chính quyền thường theo dõi nghiêm ngặt hoạt động của những nhóm người này.

Sau khi làn sóng nữ quyền thứ nhất qua đi, các loại trào lưu tư tưởng cấp tiến nhằm đả kích quan niệm gia đình, hôn nhân truyền thống trở nên thịnh hành, làm bước đệm cho các phong trào nữ quyền cấp tiến sau này.

Làn sóng thứ hai của phong trào nữ quyền bắt đầu ở Mỹ vào cuối những năm 1960, sau đó phổ biến sang Tây Âu và Bắc Âu, rồi phát triển nhanh chóng ra khắp thế giới. Xã hội Mỹ vào cuối thập niên 60 bước vào thời kỳ bất ổn, cùng với các phong trào nhân quyền, phong trào phản đối Chiến tranh Việt Nam, các loại trào lưu tư tưởng xã hội cấp tiến đồng loạt ngóc đầu dậy. Lợi dụng bối cảnh có một không hai này, chủ nghĩa nữ quyền thừa cơ lại xuất hiện với diện mạo biến thái, làm mưa làm gió trên thế giới.

Viên gạch đầu tiên đặt định cho làn sóng thứ hai này của phong trào nữ quyền là cuốn “Bí ẩn nữ tính” (The Feminine Mystique) của Betty Friedan xuất bản năm 1963 và Tổ chức Phụ nữ Quốc gia (NOW). Bà ta đứng từ góc độ phụ nữ trong gia đình trung lưu ở nông thôn để kịch liệt phê phán vai trò của phụ nữ trong gia đình truyền thống, cho rằng hình tượng bà nội trợ vui vẻ, mãn nguyện, hạnh phúc của gia đình truyền thống là tư tưởng mê muội do cái gọi là “xã hội nam quyền” nhào nặn nên. Bà ta gọi gia đình trung lưu ở ngoại ô là “trại tập trung thoải mái của phụ nữ Mỹ”, và phụ nữ hiện đại có giáo dục nên nhảy thoát khỏi cảm giác thỏa mãn với cuộc sống chỉ biết phụ trợ cho chồng và dạy dỗ con cái, họ nên thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình để khẳng định giá trị chân chính của bản thân. [4]

Mấy năm sau, những nhà chủ nghĩa nữ quyền cấp tiến hơn đã lập ra các Tổ chức Phụ nữ Quốc gia để kế tục và phát triển tư tưởng nữ quyền của Betty Friedan. Họ cho rằng phụ nữ từ xưa đến nay đều bị áp bức dưới chế độ phụ quyền. Họ quy kết “gia đình” là căn nguyên khiến phụ nữ phải chịu áp bức, họ chủ trương phải cải biến hoàn toàn chế độ xã hội, thay đổi triệt để văn hóa truyền thống, tiến hành “đấu tranh” trên mọi mặt – kinh tế, giáo dục, văn hóa, và gia đình – để thực hiện “bình đẳng” phụ nữ.

Phân chia xã hội thành hai nhóm: “kẻ bị áp bức” và “kẻ áp bức” để cổ xúy “đấu tranh”, “giải phóng”, “bình đẳng” chính là yếu lĩnh trọng tâm của chủ nghĩa cộng sản. Đây chính là cốt lõi của duy vật biện chứng, kêu gọi và tuyệt đối hóa cái gọi là có “đấu tranh” thì mới có “phát triển”. Chủ nghĩa Marx dựa trên địa vị kinh tế để phân chia các nhóm người, còn chủ nghĩa nữ quyền mới lại phân chia nhóm người dựa trên giới tính.

Kỳ thực, trong quá khứ, những thời kỳ được coi là thịnh vượng và hoàng kim nhất của nhân loại đều dựa trên cơ sở “hài hòa” mà tồn tại và mang đến những bước phát triển nhảy vọt cho văn minh. Còn “đấu tranh” thì thông thường là dẫn đến sự tàn tạ của xã hội và nhân loại ai ai cũng e sợ nó, không thích nó. Trong gia đình cũng vậy, chỉ có sự hài hòa giữa vợ chồng mới có thể khiến gia đình hưng thịnh, góp phần giúp xã hội phát triển mà thôi. Sự phát triển biện chứng, hai mặt của vạn vật trong tự nhiên đã được cổ nhân tìm hiểu thâm sâu, biểu hiện trong các lý thuyết về thái cực, âm dương. Chỉ có cái gọi là “duy vật biện chứng” mới đề xướng và bóp méo sự vật một cách cực đoan như thế.

Hơn nữa trên thực tế, Betty Friedan mà chúng ta nói đến ở trên, lại không phải thuộc tuýp phụ nữ như cuốn sách của bà đề cập – một phụ nữ ngoại ô trung lưu chán ghét việc nhà vặt vãnh. Daniel Horowitz, giáo sư Trường Đại học Smith, năm 1998 đã viết cuốn tiểu sử có tiêu đề “Betty Friedan và việc xuất bản cuốn Bí ẩn nữ tính”. Điều tra của ông cho thấy Friedan, tên thời thiếu nữ là Betty Goldstein, từ thời học đại học đến thập niên 50 vẫn luôn là một nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa cấp tiến. Bà từng làm phóng viên chuyên nghiệp – nói chính xác là tuyên truyền viên – cho một số tổ chức công đoàn lao động cấp tiến, vốn là cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Mỹ.

David Horowitz, một người từng theo cánh tả (không có quan hệ gì với Daniel Horowitz) đã xem lại những bài báo mà Friedan đã viết để hiểu quá trình hình thành quan điểm của bà. [5] Khi học ở Đại học California-Berkeley, bà đã gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản và hai lần xin gia nhập Đảng Cộng sản Mỹ nhưng không được chấp nhận. Nhưng nguyên nhân rất có thể là bởi vì nếu không mang thân phận đảng viên, bà ta sẽ có thể tạo ảnh hưởng lớn hơn. Judith Hennessee, tác giả cuốn tiểu sử về Betty Friedan do chính bà ta công nhận, cũng nêu rõ bà là người theo chủ nghĩa Marx. [6]

Nhà văn người Mỹ Kate Weigand trong cuốn sách “Chủ nghĩa nữ quyền đỏ” (Red Feminism) đã chỉ ra rằng, thực ra, vào thời đầu thế kỷ 20 đến thập niên 60, chủ nghĩa nữ quyền ở Mỹ không hề yên ắng. Một loạt tác giả của “Chủ nghĩa nữ quyền đỏ”, là người theo chủ nghĩa cộng sản như Susan Anthony, Eleanor Flexner, Gerda Lerner, Eve Merriam, đã trải thảm về lý luận trên nhiều phương diện cho làn sóng thứ hai của phong trào nữ quyền sau này. Vào năm 1946, Anthony đã vận dụng phương pháp phân tích của Marx, lấy cuộc áp bức của người da trắng đối với người da đen để so sánh với sự áp bức của nam giới đối với phụ nữ. Sau đó, do ảnh hưởng của tư tưởng chống cộng của McCarthyism, chủ nghĩa cộng sản đã bị bêu tiếng xấu, các nhà văn theo chủ nghĩa nữ quyền này cũng ngậm miệng không dám nói về mối quan hệ của họ với cộng sản nữa. [7]

Nhà văn người Pháp Simone de Beauvoir, tác giả của cuốn sách tiêu biểu “Giới tính thứ hai” đã lãnh đạo làn sóng thứ hai của phong trào nữ quyền ở châu Âu. Vào thời đầu, de Beauvoir là người theo chủ nghĩa xã hội. Năm 1941, cùng với Jean-Paul Sartre – nhà triết học cộng sản chủ nghĩa – và các nhà văn khác, bà sáng lập nên tổ chức “chủ nghĩa xã hội và tự do”, một tổ chức xã hội chủ nghĩa ngầm. Khi danh tiếng của chủ nghĩa nữ quyền lên cao vào thập niên 60, bà tuyên bố không còn tin vào chủ nghĩa xã hội nữa, chỉ thừa nhận mình là người theo chủ nghĩa nữ quyền.

Bà ta chủ trương: “Phụ nữ không phải do sinh ra mà là do dưỡng thành”. Bà ta tuyên bố mặc dù tình dục là do đặc điểm sinh lý của con người quyết định, nhưng giới tính lại là khái niệm sinh lý do bản thân nhận thức, được hình thành dưới ảnh hưởng của hoạt động xã hội nhân loại. Bà ta cho rằng phẩm chất nữ tính của bé gái như ngoan ngoãn, khéo léo, dịu dàng, thích làm nũng đều được tạo nên từ “những câu chuyện cổ tích” do “xã hội phụ quyền” dựng lên một cách tỉ mỉ, nhằm mục đích duy trì sự áp bức của “chế độ phụ quyền” đối với phụ nữ. Bà ta chủ trương phụ nữ phải đột phá quan niệm truyền thống, thể hiện cái tôi không chịu ước thúc.

Loại tư tưởng này, kỳ thực, đều cung cấp môi trường thích hợp cho các quan niệm biến dị như đồng tính luyến ái, song tính luyến ái, chuyển giới… Từ đó về sau, các loại tư tưởng nữ quyền xuất hiện muôn hình vạn trạng, cơ bản đều kế thừa quan điểm cho rằng sự bất bình đẳng của phụ nữ là do sự áp bức của “xã hội phụ quyền”, biến quan niệm hôn nhân gia đình truyền thống thành trở ngại chủ yếu cho việc thực thi quyền bình đẳng của phụ nữ. [8]

De Beauvoir cho rằng hôn nhân khiến phụ nữ phải chịu sự kìm kẹp của người chồng, và gọi hôn nhân cũng đáng ghê tởm như mại dâm. Bà ta từ chối kết hôn mà duy trì quan hệ tình nhân với Paul Sartre, đồng thời duy trì “tình yêu ngẫu hứng” với những người đàn ông khác. Tương tự, Paul Sartre cũng có “tình yêu ngẫu hứng” với những phụ nữ khác.

Quan niệm hôn nhân của de Beauvoir là trào lưu tư tưởng của người theo chủ nghĩa nữ quyền cấp tiến thời đó. Thực tế, loại quan hệ tình dục loạn tạp này chính là chế độ cộng thê mà Charles Fourier, người tiên phong của chủ nghĩa cộng sản không tưởng trong thế kỷ 19 đã mường tượng ra.

Hậu quả của phong trào nữ quyền

Ngày nay, quan niệm về nữ quyền đã ăn sâu vào mọi phương diện trong xã hội. Theo kết quả điều tra công chúng của Đại học Harvard vào mùa xuân năm 2016, khoảng 59% phụ nữ ủng hộ quan điểm của chủ nghĩa nữ quyền. Một quan điểm nổi bật của chủ nghĩa nữ quyền đương đại là, nam giới và phụ nữ chỉ khác nhau về đặc điểm cấu tạo cơ quan sinh sản, mọi sự khác biệt về tâm sinh lý, kể cả hành vi và tính cách của nam và nữ hoàn toàn xuất phát từ nguyên nhân xã hội và văn hóa. Với logic này, họ cho rằng nam giới và phụ nữ nên hoàn toàn bình đẳng trong mọi lĩnh vực đời sống và xã hội, rằng bất kỳ sự “bất bình đẳng” nào giữa nam giới và phụ nữ đều bắt nguồn từ sự “áp bức” và “thành kiến” về văn hóa và xã hội đối với phụ nữ.

Ví dụ, số nam giới giữ chức vụ quản lý bậc cao ở các công ty lớn, người có trình độ học vấn cao ở các trường đại học hàng đầu, và quan chức cấp cao trong chính phủ đều áp đảo số phụ nữ. Những người ủng hộ chủ nghĩa nữ quyền nhận định rằng nguyên nhân chủ yếu là do phụ nữ bị kỳ thị. Trên thực tế, nếu nhìn nhận một cách công bằng, cần so sánh sự khác biệt giữa hai phái trong điều kiện hoàn toàn tương đồng về năng lực làm việc, thời gian làm việc, thái độ làm việc v.v. Chẳng hạn, một yếu tố không thể bỏ qua là những chức vụ bậc cao đòi hỏi phải làm việc với cường độ cao trong thời gian dài, phải làm việc thêm ngoài giờ, hy sinh cả thời gian nghỉ ngơi cuối tuần, thậm chí cả ban đêm, đang ăn cơm nếu nhận được một cuộc điện thoại cũng phải lập tức triệu tập cuộc họp khẩn cấp, thường xuyên phải đi công tác xa nhà v.v. Trong khi đó, phụ nữ thông thường bị gián đoạn công việc trong thời gian sinh nở. Vì thế, họ có xu hướng dành nhiều thời gian hơn cho việc chăm sóc gia đình và con cái nên thường không muốn hy sinh thời gian cho công việc. Ngoài ra, những người giữ chức vụ này thường có tính cách khá mạnh mẽ, quyết đoán; đây cũng là điểm khác biệt lớn so với tính cách dịu dàng, mềm mỏng của đa số phụ nữ. Điều này có thể là nguyên nhân khiến rất ít phụ nữ có khả năng thăng tiến đến những chức vụ cao trong xã hội. Chủ nghĩa nữ quyền lại cho rằng đây là sự “bất bình đẳng” mà xã hội cưỡng ép lên phụ nữ, họ phản đối những quan điểm như phụ nữ nên ôn nhu, nên dành thời gian chăm sóc con cái và gia đình, họ cho rằng nhà nước nên cung cấp các dịch vụ công cộng như chăm sóc trẻ sơ sinh, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em và các chế độ phúc lợi khác. [9]

Chủ nghĩa nữ quyền đương thời không chịu chấp nhận bất cứ cách giải thích nào về hiện tượng “bất bình đẳng” nam nữ dựa trên sự khác biệt tự nhiên về tâm sinh lý giữa nam và nữ. Họ quy kết mọi sai lầm là do nguyên nhân xã hội và quan niệm đạo đức truyền thống, rằng như vậy mới là “chân lý duy nhất”, mới được coi là “phải đạo chính trị”.

Năm 2005, Hiệu trưởng Đại học Harvard – ông Lawrence Summers – tại một hội nghị học thuật đã đưa ra thảo luận về vấn đề tại sao tỷ lệ giảng viên nữ trong lĩnh vực khoa học và toán học tại các trường đại học hàng đầu lại thấp hơn giảng viên nam. Ông cho rằng các chức vụ này đòi hỏi thời gian làm việc kéo dài (lấn vào thời gian dành cho gia đình), thường xuyên phải làm việc 80 giờ mỗi tuần. Ngoài ra, còn có nguyên nhân do sự khác biệt bẩm sinh giữa nam và nữ về năng lực toán học và khoa học. Ông chỉ ra rằng, các nghiên cứu trước đó đã chứng minh sự khác biệt rõ rệt về khả năng toán học giữa học sinh nam và học sinh nữ ở bậc trung học. Vì thế mà Tổ chức Phụ nữ Quốc gia (NOW) đã cáo buộc Giáo sư Summers là “kỳ thị giới tính” và yêu cầu Đại học Harvard phải sa thải hiệu trưởng. Vị hiệu trưởng này bị giới truyền thông chỉ trích, sau đó ông đành phải công khai xin lỗi và cam kết sẽ dành 50 triệu USD để khuyến khích việc “đa dạng hóa” đội ngũ giảng viên và viên chức trong trường. [10]

Năm 1980, Tạp chí Khoa học đã công bố một nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa năng lực suy luận toán học của học sinh nam và nữ ở bậc trung học, trong đó, học sinh nam có khả năng suy luận tốt hơn. [11] Một nghiên cứu sau đó phát hiện rằng số học sinh nam có “năng khiếu toán học” cao hơn học sinh nữ. Lấy kết quả kỳ thi đầu vào của các trường đại học Mỹ (SAT) để đánh giá năng lực suy luận toán học, có thể thấy trong số những học sinh đạt 600 điểm trở lên, số học sinh nam cao gấp bốn lần số học sinh nữ; trong số những học sinh đạt 700 điểm trở lên, số học sinh nam cao gấp 13 lần số học sinh nữ. [12] Cũng chính nhóm nghiên cứu này đã tiến hành một nghiên cứu khác vào năm 2000, cho thấy những học sinh nam và học sinh nữ được coi là “thiên tài toán học” trong kỳ thi SAT thời niên thiếu thì 20 năm sau cũng đạt học lực cao trong các lĩnh vực liên quan đến toán học và khoa học, và đều thấy hài lòng với thành tựu đạt được trong nghề nghiệp của mình. Như vậy, suy luận của Summers là dựa trên số liệu khoa học.

Đã có kênh truyền thông lên tiếng rằng việc Summers bị cưỡng chế phải “công khai thừa nhận sai lầm” đối với quan điểm bất đồng của ông chẳng khác nào chính sách “cải tạo” người bất đồng chính kiến ở các quốc gia cộng sản. Ngay cả khi chưa xác định được căn nguyên của cái gọi là “bất bình đẳng”, mà sự bình đẳng về kết quả đã bị áp đặt dưới danh nghĩa khuyến khích “sự đa dạng” – nghĩa là, phải đảm bảo tăng số giảng viên nữ trong bộ môn toán và khoa học lên.

Alexis de Tocqueville – nhà ngoại giao, cũng là nhà khoa học chính trị Pháp thế kỷ 19 – đã chỉ ra rằng: “Dân chủ và chủ nghĩa xã hội không có bất cứ điểm tương đồng nào, ngoại trừ một từ ‘bình đẳng’. Song hãy để ý sự khác biệt này: Dân chủ tìm kiếm [cơ hội] bình đẳng trong điều kiện tự do, còn chủ nghĩa xã hội truy cầu [kết quả] bình đẳng bằng cưỡng chế, ép buộc.” [13] Do vậy, thật dễ nhận ra cái gen của chủ nghĩa cộng sản ẩn giấu đằng sau chủ nghĩa nữ quyền.

Cần nhấn mạnh rằng, ở đây chúng ta không có ý định chứng minh nam giới có trí tuệ hay năng lực ưu việt hơn phụ nữ, bởi vì tài năng của nam giới và phụ nữ biểu hiện ở các phương diện khác nhau. Việc cố ý cào bằng sự khác biệt giữa nam và nữ là không phù hợp với nhận thức thông thường, cũng khiến cho nam giới và phụ nữ không thể phát huy tối đa sở trường của mình.

Nếu nói rằng giữa nam và nữ không có sự khác biệt rõ ràng về trí tuệ và tâm lý thì thật khó tưởng tượng rằng chủ nghĩa nữ quyền lại có thể phủ nhận sự khác biệt giữa nam và nữ về khía cạnh thể lực và sinh sản. Trong quan niệm truyền thống của phương Đông và phương Tây, nam giới đóng vai trò là người bảo vệ, nam giới chiếm số đông trong lính cứu hỏa vẫn luôn là điều bình thường. Chủ nghĩa nữ quyền lại tuyên bố rằng nam nữ là tuyệt đối “bình đẳng”, họ yêu cầu phụ nữ cũng phải đảm nhận những công việc vốn là của nam giới. Điều này đã gây ra hậu quả mà chúng ta không lường đến được.

Năm 2005, Cục Cứu hỏa Thành phố New York đã phê duyệt cho một phụ nữ không đạt kết quả kiểm tra thể lực của lính cứu hỏa. Lính cứu hỏa phải mang bình dưỡng khí và các thiết bị nặng 50 pound (22.68kg) và trải qua một loạt bài kiểm tra thể lực. Người phụ nữ này cuối cùng đã không đạt tiêu chuẩn. Mặc dù những lính cứu hỏa khác đã chỉ ra rằng một thành viên không đạt tiêu chuẩn sẽ tạo ra gánh nặng lớn hơn cho thành viên trong đội, và sẽ uy hiếp đến sự an toàn của cả đội cũng như người dân. Song cuối cùng, Cục Cứu hỏa New York vẫn quyết định tuyển dụng cô này để tránh một đơn kiện từ Tổ chức Phụ nữ Quốc gia. Tổ chức Phụ nữ Quốc gia trong thời gian dài đã chỉ trích Cục Cứu hỏa New York thiết lập bài kiểm tra thể lực với yêu cầu tiêu chuẩn quá cao, khiến tỷ lệ lính cứu hỏa nữ rất thấp. [14] Cục cứu hỏa Chicago cũng gặp tình huống tương tự; họ đã bị ép hạ thấp tiêu chuẩn để tuyển dụng nhiều lính cứu hỏa nữ hơn.

Ở Úc, rất nhiều sở cứu hỏa tại nhiều thành phố cũng đã quy định chỉ tiêu giới tính trong việc tuyển dụng lính cứu hỏa, tức là nếu có 50% nam giới được tuyển thì cũng phải tuyển 50% phụ nữ vào đội cứu hỏa. Để đạt chỉ tiêu này, yêu cầu thể lực đặt ra đối với lính cứu hỏa nam cao hơn rất nhiều so với lính cứu hỏa nữ, cho dù họ phải làm công việc áp lực cao và nguy hiểm như nhau.

Kiểu truy cầu kết quả bình đẳng vô lý này còn dẫn đến một vấn đề khác, khiến người ta hết sức kinh ngạc: Tổ chức Phụ nữ Quốc gia lại phàn nàn rằng lính cứu hỏa nữ bị các đồng nghiệp nam “bắt nạt” khi chỉ trích là họ không đạt tiêu chuẩn, không phù hợp để làm lính cứu hỏa và gây “áp lực tinh thần” cho họ. [15] Nó cũng tạo cho Tổ chức Phụ nữ Quốc gia cái cớ để tiếp tục đấu tranh và vận động cho “bình đẳng”. Đây là lý do tại sao chủ nghĩa nữ quyền lại có khẩu hiệu: “Chúng tôi vẫn còn rất nhiều việc phải làm”.

Dưới sự ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản, các phong trào nữ quyền có vẻ như không có chút lý tính nào, nhưng tư tưởng chủ đạo đằng sau nó thực ra là thách thức cái gọi là chế độ phụ quyền (thực chất là nền tảng xã hội truyền thống), tiến tới phá vỡ gia đình truyền thống. Điểm này hoàn toàn tương đồng với việc lật đổ chủ nghĩa tư bản thông qua đấu tranh giai cấp.

Xã hội truyền thống nhìn nhận rằng nam giới cần thể hiện sự cứng rắn, phụ nữ cần thể hiện sự nhu thuận, mềm mỏng. Nam giới gánh vác trách nhiệm là trụ cột của gia đình và xã hội, bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Nhưng chủ nghĩa nữ quyền lại muốn thách thức kết cấu xã hội phụ quyền này, cho rằng nam nữ đều như nhau, rằng xã hội phụ quyền đã tạo ưu thế cho nam giới và “áp bức” phụ nữ. Theo đó, tinh thần hiệp sỹ và phong độ lịch thiệp truyền thống đều bị xem thường. Theo lý tưởng của chủ nghĩa nữ quyền, xã hội tương lai sẽ không được chứng kiến sự cao thượng của những người đàn ông trên con tàu Titanic trước khi chìm xuống đáy biển, họ đã chủ động nhường hết cơ hội được cứu sống của mình cho phụ nữ.

Sự thách thức của chủ nghĩa nữ quyền đối với chế độ phụ quyền còn biểu hiện ở phương diện giáo dục. Sau khi chủ nghĩa nữ quyền vận động thông qua Đạo luật về Quyền Bình đẳng (ERA) tại Pennsylvania, trong một vụ kiện nhằm vào Liên đoàn Thể thao Hoa Kỳ tại Pennsylvania, tòa án đã phán quyết rằng nhà trường cần phải cho các học sinh, không phân biệt giới tính, tham gia vào tất cả các hoạt động thể chất, bao gồm cả đấu vật và bóng đá Mỹ, cũng có nghĩa là học sinh nữ không được vắng mặt trong các môn thi đấu bóng đá và bóng bầu dục chỉ vì lý do giới tính. [16]

Học giả người Mỹ Christina Hoff Sommers, trong cuốn sách năm 2013 có tên “Cuộc chiến chống lại nam sinh: Tác hại của chủ nghĩa nữ quyền đối với nam thanh thiếu niên của chúng ta” (The War Against Boys: How Feminism Is Harming Our Young Men) đã nêu ra rất nhiều ví dụ về tình trạng nam tính đang chịu sự áp chế. [17] Trong đó, có một câu chuyện về Trường Trung học Hàng không ở quận Queens, New York. Những học sinh mà nhà trường tuyển sinh chủ yếu là trẻ em của các gia đình thu nhập thấp. Nhà trường đã bồi dưỡng các em trở thành những học sinh ưu tú và được Tạp chí “Tin tức Hoa Kỳ và Báo cáo Thế giới” bình chọn là một trong những trường trung học xuất sắc nhất ở Mỹ.

Nhà trường chủ yếu dạy học sinh qua các dự án thực hành như chế tạo máy bay cơ điện. Không khó để nhận ra là đa số học sinh trong trường là nam. Nữ sinh trong trường chiếm tỷ lệ tương đối thấp, nhưng học cũng rất giỏi và được giảng viên cũng như các bạn tôn trọng.

Tuy nhiên, trường học này, trong hơn 10 năm qua, đã phải hứng chịu nhiều chỉ trích và bị các tổ chức phụ nữ uy hiếp kiện ra pháp luật, yêu cầu phải nâng cao tỷ lệ nữ sinh nhập học. Người sáng lập Trung tâm Luật Phụ nữ Quốc gia trong bài phát biểu tại Nhà Trắng năm 2010, đã lấy Trường Trung học Hàng không New York làm ví dụ cho việc “phân biệt giới tính”. Họ tuyên bố rằng: “Trước khi đạt được bình đẳng tuyệt đối, chúng ta khó có thể nghỉ ngơi trong vinh quang, con đường của chúng ta còn rất dài.”

Việc bồi dưỡng tinh thần nam nhi cho các bé trai từ khi còn nhỏ, khích lệ các em có khả năng độc lập, tinh thần tiến thủ, dám xông pha chỗ nguy hiểm, và khuyến khích bé gái hiền dịu, biết quan tâm, chăm sóc gia đình, đối với chủ nghĩa nữ quyền mà nói, đều là nguyên nhân gây nên sự bất bình đẳng giới tính cho xã hội tương lai và sự áp bức, kỳ thị đối với phụ nữ.

Trên thực tế, một hậu quả xấu khác mà chủ nghĩa nữ quyền cực đoan gây ra là khiến xã hội phát triển theo hướng không phân biệt giới tính, cả nam giới và phụ nữ đều không còn đặc điểm tâm lý giới tính đặc thù của mình, điều này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của trẻ em cũng như thanh niên. Có thể dự đoán rằng trong xã hội sẽ xuất hiện ngày càng nhiều nhóm người đồng tính, lưỡng tính hoặc chuyển giới.

Sự thực là ở một số quốc gia châu Âu đã xuất hiện xu hướng này. Ngày càng nhiều trẻ em ở trường về nói với cha mẹ rằng chúng bị mang nhầm cơ thể. Năm 2009, Cục Phát triển Nhận diện Giới tính (GIDS) có trụ sở tại Tavistock và Quỹ Sáng lập NHS Portman tại London đã nhận được 97 trường hợp có xu hướng chuyển giới. Đến năm 2017, GIDS đã nhận được 2.500 trường hợp như vậy mỗi năm. [18]

Đương nhiên đây cũng là mục đích mà cái gen di truyền cộng sản đứng đằng sau chủ nghĩa nữ quyền muốn đạt được: Dùng mọi cách để phá hủy quan niệm đạo đức gia đình truyền thống nhằm làm băng hoại và giải thể gia đình truyền thống.

Trong văn hóa truyền thống, Thần hay Trời trao cho phụ nữ thiên chức sinh đẻ, nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Đằng sau những nhân vật anh hùng vĩ đại trong văn hóa truyền thống phương Đông và phương Tây đều là những người mẹ vĩ đại. Thế nhưng, theo chủ trương của chủ nghĩa nữ quyền, một ví dụ cho điển hình việc áp bức phụ nữ của xã hội phụ quyền là phụ nữ được kỳ vọng chăm sóc con cái, cho rằng trách nhiệm của người mẹ, người phụ nữ trong gia đình là “không bao giờ kết thúc, khô khan, nhàm chán, không được đền đáp”.

Có người đã làm thống kê đơn giản và phát hiện rằng những phụ nữ có tên tuổi vận động cho chủ nghĩa nữ quyền đa phần là những phụ nữ có cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, hoặc không kết hôn, hoặc kết hôn nhưng không có con, đương nhiên những phụ nữ này thật khó mà lý giải được việc những người phụ nữ bình thường coi hôn nhân và gia đình là một phần quan trọng nhất trong cuộc đời của mình, họ cũng khó mà hiểu được cảm giác mãn nguyện tự nhiên của người mẹ khi nuôi dạy con cái và ngắm nhìn con cái trưởng thành.

Ngày nay, chủ nghĩa nữ quyền đã làm nảy sinh các loại trào lưu tư tưởng nực cười. Có người chủ trương “việc cá nhân đều có ý nghĩa chính trị”, thực ra là đồng nhất cuộc sống cá nhân với “làm chính trị”, làm dấy động “chiến tranh giới tính” trong gia đình. Có người lại coi nam giới như con quỷ hút máu nô dịch tư tưởng và thân thể của phụ nữ. Có người nói con cái là chướng ngại cho việc phát huy tối đa tiềm năng của phụ nữ, họ quy kết cho gia đình là nguyên nhân khiến phụ nữ phải chịu áp bức.

Trên thực tế, chủ nghĩa nữ quyền hiện đại không hề che giấu mục đích phá hoại gia đình truyền thống của nó. Dưới sự dẫn dắt của phong trào nữ quyền đương đại, những chủ trương này không hề mới: “Chấm dứt chế độ hôn nhân là điều kiện tất yếu để giải phóng phụ nữ” [19]; “Phụ nữ không nên lựa chọn vai trò phục vụ gia đình và có kế hoạch trở thành người xây tổ ấm”[20]; “Không tiêu diệt hôn nhân thì sẽ không thể tiêu diệt được sự bất bình đẳng nam nữ” [21].

Phong trào nữ quyền lấy danh nghĩa “giải phóng” để “giải quyết” các vấn đề xã hội do sự bại hoại đạo đức của nhân loại gây ra, từ đó làm biến dị quan niệm của con người, khiến đạo đức xã hội càng thêm bại hoại. Nữ học giả người Mỹ Sylvia Ann Hewlett đã chỉ ra rằng chủ nghĩa nữ quyền hiện nay là nguyên nhân chủ yếu tạo ra những gia đình mẹ đơn thân; phong trào nữ quyền đang ra sức thúc đẩy “những vụ ly hôn mà hai bên không có lỗi”, thực ra là tạo điều kiện thuận lợi để nam giới trốn tránh trách nhiệm sau khi ly hôn. Trớ trêu thay, chủ nghĩa nữ quyền muốn phá hoại hoặc thay đổi kết cấu gia đình vốn có, nhưng gia đình lại chính là bến đỗ bình yên của đa số phụ nữ trước các nguy cơ xã hội, còn phụ nữ, đa số đều mong muốn vun đắp cho gia đình mình chứ không phải là phá hoại.

Trái ngược với chủ trương của chủ nghĩa nữ quyền, ly hôn không mang lại cho phụ nữ sự tự do mà họ kỳ vọng. Có nghiên cứu chỉ ra rằng 27% phụ nữ sau khi ly hôn rơi vào diện nghèo (cao gấp ba lần nam giới). [22] Điều này cũng không có gì là lạ, ma quỷ đằng sau chủ nghĩa cộng sản không hề quan tâm đến “quyền lợi” của phụ nữ, bởi vì mục đích của nó là phá hoại gia đình, phá hoại luân thường đạo lý của con người.

Đồng tính luyến ái và định nghĩa lại khái niệm gia đình

Phong trào quyền đồng tính luyến ái (đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính, và chuyển giới – LGBT) từ khi bắt đầu đã không tách rời sự thúc đẩy mạnh mẽ của chủ nghĩa cộng sản. Những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng thời kỳ đầu đề xuất rằng đồng tính luyến ái là sự lựa chọn “tự do” của con người. Chủ nghĩa cộng sản tuyên bố phải “giải phóng” nhân loại khỏi những “trói buộc” của quan niệm đạo đức truyền thống. Vì vậy, trong lý luận của chủ nghĩa cộng sản, giải phóng tình dục bao gồm cả giải phóng “quyền” đồng tính luyến ái, cho rằng đó đều là tự do mà nhân loại nên được hưởng. Trong phong trào “tự do tình dục”, phần lớn những người theo chủ nghĩa cộng sản hoặc những người có cùng quan điểm với nó đều cổ xúy cho “quyền” đồng tính luyến ái.

Trong những năm 1890, một số nhân vật cấp cao của Đảng Dân chủ Xã hội Đức đã khởi xướng phong trào quyền đồng tính lớn đầu tiên trên thế giới. Magnus Hirschfeld của Đảng Dân chủ Xã hội Đức đã đưa ra lý lẽ lập luận rằng hành vi đồng tính là “tự nhiên” và “có đạo đức”. Năm 1897, Hirschfeld sáng lập ra Ủy ban Khoa học-Nhân văn (tên tiếng Đức là Wissenschaftlich-humanitäres Komitee, WhK) nhằm bảo vệ quyền lợi của giới đồng tính luyến ái. Tổ chức này đã phát động phong trào đầu tiên của nó cũng vào năm này.

Năm 1895, nhà văn người Anh Oscar Wilde bị cáo buộc có quan hệ với một người đàn ông khác. Đảng Dân chủ Xã hội Đức là tổ chức duy nhất ủng hộ và bào chữa cho quyền đồng tính luyến ái của Wilde. Lãnh tụ của Đảng Dân chủ Xã hội Đức Eduard Bernstein chủ trương bãi bỏ các quy định pháp luật cấm hành vi quan hệ đồng tính nam.

Một ví dụ nổi bật nhất về phong trào “giải phóng tình dục” sau cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga của Bolsheviks là nội dung đã được đề cập tại mục 4 của chương này. Trong phong trào này, quy định pháp luật về cấm hành vi đồng tính nam đã bị bãi bỏ. Liên Bang Nga lúc bấy giờ được những người cánh tả cho là quốc gia “tự do nhất” thế giới.

Năm 1997, Đảng Quốc Đại Nam Phi, sau khi lên nắm quyền, đã thông qua hiến pháp đầu tiên trên thế giới thừa nhận hôn nhân đồng tính là nhân quyền. Đảng Quốc Đại là thành viên của Đảng Xã hội Quốc tế (nguyên là một nhánh của Quốc tế Thứ hai), là đảng theo chủ nghĩa xã hội. Ủng hộ quyền “đồng tính luyến ái” là chính sách nhất quán của nó.

Năm 1924, Henry Gerber, một người nhập cư gốc Đức, đã sáng lập ra Tổ chức Nhân quyền – tổ chức quyền đồng tính luyến ái đầu tiên ở Mỹ – tại Chicago. Tổ chức này bắt nguồn từ Ủy ban Khoa học-Nhân văn do Magnus Hirschfeld sáng lập, nhưng khi vừa thành lập được vài tháng, nó đã bị giải tán do thành viên của nó bị cảnh sát bắt giữ. Năm 1950, Harry Hay, đảng viên Đảng Cộng sản Mỹ, thành lập ra Hội Mattachine – tổ chức quyền đồng tính luyến ái có ảnh hưởng đầu tiên ở Mỹ – tại quê hương của ông ở Los Angeles. Tổ chức này sau đó đã xuất bản tập san của nó và mở rộng sang các địa phương khác.

Năm 1957, nhà động vật học Everlyn Hooker phát biểu báo cáo nghiên cứu của mình, thông qua các bài kiểm tra tâm lý, cô cho rằng không có sự khác biệt về trạng thái tâm lý của người đồng tính so với người bình thường. Kết quả nghiên cứu này sau đó đã trở thành “cơ sở khoa học“ quan trọng nhất để chứng minh hành vi đồng tính luyến ái là “bình thường”. [23] Một thành viên của Hội Mattachine – người có quan hệ mật thiết với Hooker, đã thuyết phục cô dùng nghiên cứu của cô để ủng hộ đồng tính luyến ái – là người đã xúc tiến thành công công trình nghiên cứu này. Đối tượng nghiên cứu không hề được lựa chọn ngẫu nhiên mà đều là thành viên của Hội Mattachine. Điểm này đã trở thành một trong những nguyên nhân khiến nghiên cứu này bị chỉ trích. [24]

Những năm 1960, cùng với sự tấn công ồ ạt của phong trào giải phóng tình dục và phong trào Hippie vào quan niệm truyền thống của con người, phong trào quyền đồng tính luyến ái cũng dần dần được công khai. Năm 1971, Tổ chức Phụ nữ Quốc gia (NOW) trở thành tổ chức lớn đầu tiên ủng hộ quyền đồng tính luyến ái (LGBT).

Năm 1974, Hiệp hội Tâm thần học Mỹ đã dùng báo cáo nghiên cứu của Hooker làm cơ sở khoa học quan trọng nhất để quyết định không coi đồng tính luyến ái là bệnh tâm thần. Khi hiệp hội bỏ phiếu biểu quyết cho nghị quyết này thì có 39% số người phản đối. Nói cách khác, bản thân nghị quyết này vốn không được giới khoa học nhất trí như mọi người vẫn nghĩ.

Hooker và những người nghiên cứu theo lý luận của cô sau này đã sử dụng cái gọi là kết quả kiểm tra “khả năng thích ứng” để làm tiêu chuẩn đánh giá trạng thái tâm lý của người đồng tính. Nói một cách khái quát, nếu một cá nhân có thể thích ứng với xã hội, có thể duy trì tốt đẹp các mối quan hệ xã hội và có sự tự tôn của mình, không có bất cứ trở ngại nào về tâm lý trong cuộc sống hàng ngày thì được kết luận là có tâm lý bình thường. Tiến sỹ Robert L.Kinney III đã có bài viết trên Tạp chí Y khoa Lincore năm 2015 chỉ ra rằng tiêu chuẩn “khả năng thích ứng” này có một vấn đề, đó là đối với rất nhiều loại bệnh tâm lý, nếu dùng bài kiểm tra “khả năng thích ứng” làm tiêu chuẩn đo lường sẽ đưa đến kết quả đánh giá sai lầm rằng những người này đều có tâm lý “bình thường”. Ví dụ, có một loại bệnh rối loạn nhận diện cơ thể (Xenomelia), bệnh nhân có mong muốn mạnh mẽ muốn cắt bỏ đi bộ phận cơ thể khỏe mạnh của mình (ví dụ bỏ đi một chân), tương tự như việc một số người đồng tính nghĩ rằng mình đã bị nhầm cơ quan sinh dục, những người mắc chứng xenomelia này cũng có niềm tin mãnh liệt rằng một bộ phận nào đó trên cơ thể mình không phải là của mình. Những người bệnh này hoàn toàn có khả năng thích ứng với xã hội, có thể duy trì tốt các mối quan hệ xã hội và có sự tự tôn của mình, họ không có bất cứ trở ngại nào về tâm lý trong cuộc sống hàng ngày. Thậm chí nếu họ có cắt bỏ chân tay của mình xong thì họ vẫn cảm thấy vui vẻ và cho rằng “chất lượng cuộc sống đã được cải thiện”. [25]

Kinney còn liệt kê ra những căn bệnh tâm lý khác, như có người mắc chứng rối loạn tâm lý thích ăn nhựa, một số người bệnh khác có mong muốn mạnh mẽ tự làm tổn thương thân thể mình (nhưng không tự sát) v.v. Những người bệnh này đều có “khả năng thích ứng”, có khả năng hòa đồng với xã hội, thậm chí đa số còn có trình độ trên đại học, tuy nhiên giới khoa học đều công nhận đây là những chứng bệnh rối loạn tâm lý. Kinney cũng chỉ ra trên thực tế dùng “khả năng thích ứng” làm tiêu chuẩn để đánh giá trạng thái tâm lý là một loại lập luận logic luẩn quẩn và ngụy biện. [26]

Rất nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sử dụng ma túy, tự sát và mắc bệnh AIDS trong những người đồng tính cao hơn người bình thường [27], ngay cả tại những quốc gia đầu tiên đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính (như Đan Mạch) cũng như vậy [28]. Tỷ lệ người mắc bệnh giang mai và AIDS trong những người đồng tính nam cao hơn người bình thường từ 38-109 lần [29]. Vào thập niên 1990, trước khi có những đột phá trong phương pháp chữa trị bệnh AIDS, tuổi thọ bình quân của người đồng tính thậm chí còn thấp hơn tuổi thọ bình quân của con người từ 8-20 năm [30]. Những con số thực tế này cũng cho thấy đồng tính luyến ái không phải “bình thường” như người ta vẫn cổ xúy cho nó.

Cùng với việc ngày càng có nhiều người biết đến phong trào quyền đồng tính luyến ái, việc “kỳ thị đồng tính luyến ái” bị gắn mác “chính trị” và gây sát thương mạnh mẽ, những chuyên gia có quan điểm coi đồng tính luyến ái là bệnh tâm thần bị gạt sang một bên. Mặt khác, có khá nhiều người đồng tính đạt học vị cao trong lĩnh vực tâm thần học và tâm lý học, họ trở thành những “chuyên gia nghiên cứu” tâm lý học về đồng tính.

Cái được gọi là “bằng chứng khoa học” được sử dụng rộng rãi để biện minh rằng hành vi đồng tính luyến ái là “bình thường” là “Báo cáo của nhóm chuyên trách về cách trị liệu thích hợp về xu hướng tình dục” (Report of the Task Force on Appropriate Therapeutic Responses to Sexual Orientation) do Hiệp hội Tâm thần học Mỹ chỉ định vào năm 2009. Kinney chỉ ra rằng sáu trong số bảy thành viên trong nhóm công tác chuyên trách này, bao gồm cả trưởng nhóm, đều là người đồng tính hoặc người lưỡng tính. Do đó, từ góc độ khoa học mà nói, lập trường của nhóm công tác này không hề trung lập.

Cố chủ tịch Hiệp hội Nghiên cứu và Điều trị Đồng tính Luyến ái Quốc gia tiết lộ rằng, lúc đó, còn có những chuyên gia rất giỏi xin gia nhập nhóm công tác, nhưng họ đều là những người ủng hộ việc dùng phương pháp học thuật để điều trị hành vi đồng tính luyến ái nên đều không được tham gia nhóm công tác này [31]. Chủ tịch tiền nhiệm của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ Nicholas Cummings đã công khai chỉ trích hiệp hội này vì đã để cho chính trị áp đảo khoa học, để cho phái tự do cực đoan cổ xúy cho phong trào quyền đồng tính luyến ái thao túng hiệp hội.

Đến nay, tiêu chuẩn “khả năng thích ứng” vẫn được các “chuyên gia” tâm lý về đồng tính và phong trào đồng tính tôn sùng; nó cũng được Hiệp hội tâm thần học Mỹ dùng để đo lường những chứng bệnh rối loạn tâm lý tình dục khác. Ví dụ, theo sổ tay điều trị của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ, tiêu chuẩn để đo lường rối loạn tâm thần tình dục với trẻ em (ấu dâm) là: nếu một người trưởng thành nhìn thấy trẻ em mà nảy sinh khát vọng tình dục mãnh liệt không khống chế được hoặc có ảo tưởng về quan hệ tình dục, nhưng không thực hiện những hành vi này, nếu bản thân người đó không có chướng ngại tâm lý đối với trạng thái tâm lý này, tức là trong tâm người đó không cảm thấy áy náy, xấu hổ hay căng thẳng tinh thần, thì xu hướng ấu dâm của người đó được xem là “bình thường”. Ngược lại, nếu người bệnh cảm thấy nội tâm giằng xé, có cảm giác nhục nhã và áp lực tâm lý trước tình trạng của mình thì lại bị coi là người mắc chứng rối loạn tâm lý ấu dâm.

Đáng chú ý là cái gọi là tiêu chuẩn chẩn đoán tâm lý này hoàn toàn trái ngược với giá trị đạo đức phổ quát của con người, con người khi làm những hành vi bại hoại mà cảm thấy xấu hổ và cảm thấy trái với đạo đức lại bị coi là mắc bệnh tâm lý, đó chính là coi những thứ biến dị và bại hoại là bình thường. Tiêu chuẩn “khả năng thích ứng” đã hợp pháp hóa cho hành vi và hôn nhân đồng tính, vậy thì bước tiếp theo của ma quỷ – hợp pháp hóa hành vi ấu dâm – sẽ đến trong tương lai không xa.

David Thorstad – đảng viên Đảng Cộng sản Mỹ, người theo chủ nghĩa Trotsky – là người sáng lập Tổ chức Ấu dâm Bắc Mỹ NAMBLA. Một người quan trọng khác khởi xướng công khai hành vi ấu dâm và cũng là người tiên phong trong phong trào quyền đồng tính luyến ái ở Mỹ – Allen Ginsberg – là một người theo chủ nghĩa cộng sản và cũng là người sùng bái Fidel Castro. Một tổ chức ấu dâm chủ yếu khác nữa là Chu kỳ Khoái cảm ở Trẻ em (CSC) được sáng lập vào năm 1971 tại California bởi những người theo chủ nghĩa cộng sản Đức và là học trò của Wilhelm Reich, tác giả của cuốn “Cách mạng tình dục”.

Chiếc hộp Pandora đã mở ra. Theo tiêu chuẩn “khả năng thích ứng” của tâm lý học ngày nay, các loại “tự do tình dục” biến thái mà Charles Fourier – cha đẻ của chủ nghĩa xã hội không tưởng đã ủng hộ bao gồm cả loạn luân giữa các thành viên trong gia đình, quần hôn, giao cấu với súc vật, đều có thể xem là “trạng thái tâm lý bình thường”. Gia đình truyền thống do Thần định ra là sự kết hợp giữa “nam và nữ”, đã bị bóp méo thành những gia đình “vợ chồng” đồng tính, vậy thì tiếp theo đó, những người loạn luân hoặc người giao cấu với súc vật cũng có thể kết hợp thành “gia đình” và được pháp luật công nhận. Đặt con người ngang hàng với động vật – vốn không có tiêu chuẩn đạo đức của con người – chính là thủ đoạn mà ma quỷ dùng để hủy diệt nhân loại.

Sự kết hợp, giao thoa giữa các phong trào đồng tính luyến ái, giải phóng tình dục và chủ nghĩa nữ quyền đã đánh đổ hoàn toàn các quan niệm đạo đức tình dục và gia đình truyền thống, đi ngược lại hình thức gia đình và hôn nhân truyền thống mà Thần đã thiết lập cho con người.

Cần nhấn mạnh rằng chủ trương không kỳ thị đồng tính luyến ái xuất phát từ nguyện vọng thuần túy tốt đẹp nhưng lại vô tri. Ma quỷ đã lợi dụng nguyện vọng tốt đẹp đó của con người để lừa dối con người nhằm đạt được mục đích hủy hoại con người, bởi vì con người đã quên mất lời dạy của Thần. Thần đã phỏng theo hình tượng của mình để tạo ra nam và nữ, quy định ra quy phạm đạo đức cho con người. Nếu con người phản lại Thần, nghe theo lời ma quỷ mà phóng túng dục vọng, làm biến dị bản thân, khiến cho nam không ra nam, nữ không ra nữ, vứt bỏ đi quy phạm đạo đức làm người mà Thần định ra thì kết cục đáng sợ cuối cùng sẽ phải đối mặt là mất đi sự bảo hộ của Thần và tiến đến vực thẳm không lối thoát.

Đối với những người lạc vào con đường dẫn đến vực thẳm này, người khác sẽ động viên họ rằng “Chúng tôi tôn trọng sự lựa chọn của bạn”, có thể điều này xuất phát từ lòng tốt, nhưng kết quả lại là đẩy đối phương đến hoàn cảnh nguy hiểm. Người có lòng tốt thực sự cần phải khuyên những người đang lầm đường lạc lối nên phân biệt rõ đường chính và đường tà, thoát khỏi kết cục bị tiêu hủy, cho dù họ có thể bị người khác hiểu lầm và chỉ trích.

Cổ xúy quyền ly hôn và quyền phá thai

Trước năm 1969, luật ly hôn tại các bang của Mỹ đều dựa trên giá trị tôn giáo truyền thống. Pháp luật yêu cầu phải đưa ra lý do ly hôn dựa trên lỗi lầm của đương sự hoặc đối phương. Theo truyền thống tôn giáo phương Tây, hôn nhân là do Chúa định ra, do Chúa chứng giám, không thể dễ dàng phá hủy. Hơn nữa, gia đình ổn định sẽ mang lại lợi ích cho vợ chồng, con cái và toàn xã hội. Do đó, giáo hội và pháp luật của các bang đều chú trọng đảm bảo cho hôn nhân gia đình không bị tan vỡ vì những lý do không chính đáng. Đến những năm 1960, trào lưu phản truyền thống do trường phái Frankfurt khởi xướng đã làm xói mòn quan niệm hôn nhân truyền thống, trong đó, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa nữ quyền có sức phá hoại lớn nhất.

Những người theo chủ nghĩa tự do đã phủ nhận tính thiêng liêng của hôn nhân, họ đơn giản hóa hôn nhân thành một thứ hợp đồng do hai bên tự nguyện ký kết. Chủ nghĩa nữ quyền còn cho rằng gia đình truyền thống là công cụ “áp bức” phụ nữ của xã hội phụ quyền. Đối với những phụ nữ cảm thấy chán nản, thất vọng vì bị “áp bức” hoặc với những phụ nữ ưa thích cuộc sống phiêu lưu mà nói, ly hôn tạo cho họ cái cớ hợp pháp để thoát khỏi hôn nhân. Những quan điểm “tự do phối hợp” hay “phản bức hại” này đã trải thảm cho các trường hợp ly hôn mà hai bên không có lỗi; theo đó, chỉ cần vợ hoặc chồng đơn phương tuyên bố cuộc sống hôn nhân của họ có “sự bất đồng không thể thỏa hiệp” thì có thể kết thúc cuộc hôn nhân.

Từ những năm 1970, tỷ lệ ly hôn ở Mỹ gia tăng nhanh chóng. Lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ, số gia đình tan vỡ do ly hôn đã vượt quá số gia đình tan vỡ do vợ hoặc chồng chết. Gần một nửa số gia đình có kết hôn trong những năm 1970 đã kết thúc bằng ly hôn.

Ly hôn gây ảnh hưởng xấu và sâu rộng đối với trẻ em. Michel Reagan, con trai nuôi của cố tổng thống Ronald Reagan đã miêu tả về ly hôn như sau: “Ly hôn là việc hai người trưởng thành tước đoạt mọi thứ có ý nghĩa của một đứa trẻ – như gia đình, người thân, sự an toàn và cảm giác được yêu thương, che chở của đứa trẻ – và họ đập tan mọi thứ của đứa trẻ, giẫm nát trên mặt đất, rồi ra khỏi cửa, để lại cho đứa trẻ tự mình thu dọn đống lộn xộn.” [32]

Thúc đẩy “quyền phá thai’’ là một thủ đoạn khác của ma quỷ nhằm hủy hoại con người. Ban đầu, người ta chỉ xem xét hợp thức hóa việc phá thai trong những tình huống cực kỳ bất đắc dĩ như các trường hợp bị cưỡng hiếp hoặc loạn luân, hoặc vì sức khỏe của người mẹ không đảm bảo để sinh nở như mắc bệnh thần kinh, bệnh tâm lý v.v.

Những người cổ xúy cho “phong trào giải phóng tình dục”, cho rằng tình dục không nên chỉ giới hạn giữa vợ chồng, nhưng trở ngại lớn nhất của việc quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là mang thai. Bởi vì các biện pháp tránh thai khó tránh khỏi thất bại, do vậy thúc đẩy hợp pháp hóa việc phá thai là biện pháp bổ sung trong trường hợp sử dụng các biện pháp tránh thai thất bại đó. Hội nghị Quốc tế của Liên Hợp Quốc về Dân số và Phát triển tại Cairo năm 1994 đã công khai quy định rằng con người có “quyền sinh con”, trong đó có quyền có “đời sống tình dục an toàn và thỏa mãn”, bao gồm cả quyền phá thai theo nhu cầu. [33]

Ngoài ra, chủ nghĩa nữ quyền còn đưa ra khẩu hiệu “Thân thể của tôi, quyền của tôi” (My Body, My Rights), họ chủ trương phụ nữ có quyền tự quyết định nên sinh con hay giết chết thai nhi. Theo cách đó, ban đầu phá thai chỉ trong trường hợp bất đắc dĩ, phát triển thành có thể “tùy ý” kết thúc sinh mệnh của một thai nhi. Khi phóng túng dục vọng của con người, ma quỷ cũng đồng thời lợi dụng phong trào nữ quyền và giải phóng tình dục để cổ xúy cho hành động giết chết thai nhi. Chúng không chỉ khiến con người phạm trọng tội mà còn khiến con người chà đạp lên quan niệm truyền thống về tính thiêng liêng của sinh mệnh.

Dùng chế độ phúc lợi để khuyến khích gia đình đơn thân

Năm 1965, chỉ có 5% trẻ em ở Mỹ được sinh ra trong gia đình mẹ đơn thân [34]. Có thể nói trẻ em thời đó sống cùng cha ruột trong một gia đình là chuyện đương nhiên.

Tuy nhiên, đến những năm 2010, tỷ lệ trẻ em được nuôi dưỡng bởi những người mẹ không kết hôn là 40% [35]. Từ năm 1965 đến năm 2012, số gia đình đơn thân ở Mỹ tăng thêm 10 triệu gia đình, từ 3,3 triệu lên đến 13 triệu. [36] Mặc dù một số gia đình có người cha ở cùng khi sống chung hoặc sau đó kết hôn với người mẹ, đa số con của những người mẹ đơn thân này lớn lên trong gia đình không có cha.

Đối với con cái, người cha có vai trò hỗ trợ hoàn toàn khác với người mẹ. Người cha là tấm gương cho bé trai, bồi dưỡng cho bé trai những hành vi cần thiết để trở thành một trang nam tử và khiến cho bé gái cảm nhận được sự tôn trọng mà phụ nữ đáng được có.

Những đứa trẻ lớn lên không có người cha bên cạnh phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Các nghiên cứu hiện nay cho thấy trẻ em trong quá trình trưởng thành mà thiếu vai trò của người cha thường trở nên thiếu tự tin. Trường hợp trốn học, bỏ học lên đến 71%. Nhiều trường hợp sử dụng ma túy, sống lang thang, tham gia băng đảng xã hội, phạm tội: 85% thanh niên vào tù và 90% người sống lang thang lớn lên trong gia đình thiếu người cha. Những người lớn lên mà không có cha có xu hướng lạm dụng tình dục (quan hệ tình dục quá sớm, dâm loạn, mang thai ở tuổi thiếu niên) cao gấp 40 lần so với số còn lại [37].

Viện Tư tưởng Brookings đã tổng kết ba lời khuyên chủ chốt giúp thanh thiếu niên thoát nghèo: Một là, phải tốt nghiệp phổ thông trung học; hai là, tìm một nơi làm việc toàn thời gian; ba là, không kết hôn và sinh con trước 21 tuổi. Theo số liệu thống kê, chỉ có 2% người Mỹ có đủ ba điều kiện này vẫn trong cảnh nghèo, còn 75% là thuộc tầng lớp trung lưu. [38] Nói cách khác, giáo dục, việc làm, tránh kết hôn quá sớm và tránh sinh con ngoài hôn nhân là con đường đáng tin cậy nhất để trở thành những người trưởng thành có trách nhiệm, sống cuộc sống lành mạnh, sung túc.

Trong tình huống hiện nay, hầu hết các bà mẹ đơn thân không thể không phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Một báo cáo của Quỹ Di sản Mỹ đã đưa ra các số liệu thống kê đầy đủ và chính xác cho thấy chính sách phúc lợi, dưới sự thúc đẩy của chủ nghĩa nữ quyền, đã khuyến khích nhiều bà mẹ chọn cuộc sống đơn thân hơn, thậm chí còn hạn chế các cặp đôi kết hôn (vì được hưởng phúc lợi ít hơn nhưng lại phải đóng thuế nhiều hơn so với việc hai người chỉ sống chung mà không kết hôn). [39] Chính phủ đã thành công trong việc lấy phúc lợi để thay thế cha của những đứa trẻ.

Chế độ phúc lợi chưa hỗ trợ được các gia đình nghèo là bao, nhưng lại khiến số gia đình đơn thân tăng cao chưa từng có. Những đứa trẻ lớn lên trong những gia đình đó càng thêm nghèo khó, lại càng phải phụ thuộc vào phúc lợi xã hội. Cái vòng luẩn quẩn này vừa khớp với một mục tiêu khác của chủ nghĩa cộng sản: thông qua việc thu thuế cao và phúc lợi cao để khống chế mọi mặt trong cuộc sống của con người.

Cổ xúy văn hóa biến dị

Một bài báo trên tờ Wall Street Journal của Mỹ công bố các tài liệu của Cục Điều tra Dân số Mỹ cho thấy, năm 2000, tỷ lệ người đã lập gia đình và người chưa lập gia đình trong nhóm người từ 25-34 tuổi lần lượt là 55% và 34%. Đến năm 2015, tỷ lệ của hai nhóm này gần như đã đổi chỗ cho nhau, trở thành 40% và 53%. Thanh niên Mỹ ngày càng xa lánh hôn nhân. Nguyên nhân là do trong văn hóa ngày nay, tình dục và hôn nhân hoàn toàn tách rời nhau, vậy thì thanh niên cần gì phải kết hôn nữa? [40]

Dưới sự điều khiển của những quan niệm biến dị, ngày nay lối sống “cặp kè” không ràng buộc, trở thành lối sống thời thượng, thậm chí quan hệ tình dục không cần có tình cảm, đương nhiên cũng không cần hai bên phải cam kết và có trách nhiệm với nhau. Điều đáng sợ nhất là thứ văn hóa biến dị này khuyến khích thanh niên thử lựa chọn giới tính cho mình. Facebook hiện cung cấp gần 60 loại giới tính khác nhau để người dùng lựa chọn. Nếu thanh niên còn không thể xác định được giới tính của mình thì họ sẽ nhìn nhận hôn nhân như thế nào? Ma quỷ đằng sau chủ nghĩa cộng sản đã định nghĩa lại hôn nhân mà Thần đã định ra, từ pháp luật cho đến quan niệm xã hội.

Trong tiếng Anh, từ “Sodomy” được dùng để chỉ hành vi đồng tính luyến ái và các loại hành vi tình dục bại hoại. Từ này có nguồn gốc từ “Kinh Thánh”, nó được dùng để chỉ thành phố dâm loạn cuối cùng bị hủy diệt bởi sự phẫn nộ của Chúa. Bản thân từ này là lời cảnh tỉnh đối với nhân loại, đó là nếu con người quay lưng lại với những răn dạy của Chúa thì sẽ phải đối mặt với kết cục cực kỳ đáng sợ. Phong trào quyền đồng tính đã cực lực phế bỏ việc sử dụng từ này, thay vào đó là sử dụng từ “gay” biểu thị sự khoái lạc, khiến con người ngày càng bị lún sâu xuống bùn nhơ.

“Thông dâm” vốn là từ dùng để biểu thị sự khinh bỉ đối với những hành vi suy đồi về tình dục, nhưng ngày nay nó được đổi thành những từ mang nghĩa trung lập như “hành vi tình dục ngoài hôn nhân”, “sống chung”. “Trinh tiết” vốn là đạo đức tốt đẹp trong văn hóa truyền thống của phương Đông và phương Tây, nhưng ngày nay lại bị coi là quan niệm lỗi thời, là “trói buộc tự do”. Trong xã hội ngày nay, người ngoại tình không những không cần phải dằn vặt về hành vi của mình mà còn có thể ngẩng cao đầu đòi phúc lợi.

Dưới sự bạo chính về ngôn ngữ của “phải đạo chính trị”, đúng sai thị phi của đồng tính luyến ái và đạo đức tình dục là những chủ đề không được đề cập đến, việc duy nhất mà người ta có thể chấp nhận là tôn trọng cái gọi là “tự do lựa chọn” của mỗi cá nhân. Điều này không chỉ thể hiện trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà trong trường học cũng như vậy, nó dần dần khiến cho văn hóa và cuộc sống của con người hoàn toàn thoát ly khỏi đạo đức truyền thống, khiến con người không thể phát hiện ra những hành vi sa ngã, coi những hành vi băng hoại và biến dị này là bình thường, từ đó những người phóng túng dục vọng không có áp lực nào về đạo đức, đó là thủ đoạn tinh vi của ma quỷ để hủy hoại con người.

Những người dưới 50 tuổi ở phương Tây dường như không còn nhớ nổi trong xã hội mà mình đã từng sống có một nền văn hóa như thế này: hầu hết trẻ em sống và trưởng thành bên cạnh người cha ruột; “gay” là từ ngữ biểu thị sự vui vẻ; váy cưới màu trắng tinh khôi biểu thị trinh tiết của cô dâu; nội dung khiêu dâm bị cấm trên truyền hình và phát thanh. Nhưng mới chỉ qua 60 năm ngắn ngủi, ma quỷ đã phá hủy hoàn toàn phương thức sinh hoạt và văn hóa truyền thống vốn có của con người.

(Còn tiếp)

Đăng lại có chỉnh sửa từ loạt bài của The Epoch Times (thespecterofcommunism.com)
Nguyễn Vĩnh tổng hợp

Tài liệu tham khảo:

[1] Judith A. Reisman, Ph.D.; Edward W. Eichel, Kinsey, Sex and Fraud: The Indoctrination of a People (Lafayette, Louisiana: Lochinvar-Huntington House, 1990); “Dr. Judith A. Reisman and her colleagues demolish the foundations of the two (Kinsey) reports.”; “Really, Dr Kinsey?” The Lancet, Vol. 337 (March 2, 1991): 547.

[2] L. B. Finer, “Trends in Premarital Sex in the United States, 1954–2003,” Public Health Reports 122(1) (2007): 73–78.

[3] Nicholas H. Wolfinger, “Counterintuitive Trends in the Link Between Premarital Sex and Marital Stability,” Institute for Family Studies, https://ifstudies.org/blog/counterintuitive-trends-in-the-link-between-premarital-sex-and-marital-stability.

[4] Betty Friedan, The Feminine Mystique (New York: W.W. Norton & Company, 1963).

[5] David Horowitz, Salon Magazine, January 1999,http://www.writing.upenn.edu/~afilreis/50s/friedan-per-horowitz.html

[6] Joanne Boucher, “Betty Friedan and the Radical Past of Liberal Feminism.” New Politics 9 (3).http://nova.wpunj.edu/newpolitics/issue35/boucher35.htm.

[7] Kate Weigand, Red Feminism: American Communism and the Making of Women’s Liberation (Baltimore, Maryland: Johns Hopkins University Press, 2002).

[8] Simone de Beauvoir, The Second Sex, trans. Constance Borde, Sheil

Tài liệu tham khảo cho mục 5-7

[9] “Jordan Peterson Debate on the Gender Pay Gap, Campus Protests and Postmodernism,” Channel 4 News, (January 16, 2018).https://www.youtube.com/watch?v=aMcjxSThD54&t=781s.

[10] Alan Findermay, “Harvard Will Spend $50 Million to Make Faculty More Diverse,” New York Times, (May 17, 2005).https://www.nytimes.com/2005/05/17/education/harvard-will-spend-50-million-to-make-faculty-more-diverse.html

[11] C. P. Benbow and J. C. Stanley, “Sex Differences in Mathematical Ability: Fact or Artifact?” Science, 210 (1980):1262–1264.

[12] C. Benbow, “Sex Differences in Ability in Intellectually Talented Preadolescents: Their Nature, Effects, and Possible Causes,” Behavioral and Brain Sciences 11(2) (1988): 169–183.

[13] Friedrich Hayek, The Road to Serfdom (Chicago: University of Chicago Press, 1994).

[14] Susan Edelman, “Woman to Become NY Firefighter Despite Failing Crucial Fitness Test,” New York Post, (May 3, 2015).https://nypost.com/2015/05/03/woman-to-become-ny-firefighter-despite-failing-crucial-fitness-test/.

[15] Una Butorac, “These Female Firefighters Don’t Want a Gender Quota System,” The Special Broadcasting Service, (May 24, 2017).https://www.sbs.com.au/news/the-feed/these-female-firefighters-don-t-want-a-gender-quota-system.

[16] Commonwealth of Pennsylvania, by Israel Packel, Attorney General, v. Pennsylvania Interscholastic Athletic Association (March 19, 1975).

[17] Christina Hoff Sommers, The War Against Boys: How Misguided Feminism Is Harming Our Young Men (New York: Simon & Schuster, 2013).

[18] Simon Osbone, “Angry Parents Blame New NHS Guidelines for Rise in Children Seeking Sex Changes,” The Daily and Sunday Express, (October 30, 2017).https://www.express.co.uk/news/uk/873072/Teenage-gender-realignment-schoolchildren-sex-change-nhs-tavistock-clinic-camhs.

[19] Declaration of Feminism. Originally distributed in June of 1971 by Nancy Lehmann and Helen Sullinger of Post Office Box 7064, Powderhorn Station, Minneapolis, Minnesota 55407 (November 1971).

[20] Vivian Gornick, as quoted in The Daily Illini (April 25, 1981).

[21] Robin Morgan, Sisterhood Is Powerful: An Anthology of Writings From the Women’s Liberation Movement (New York: Vintage, 1970), 537.

[22] Darlena Cunha, “The Divorce Gap,” The Atlantic,https://www.theatlantic.com/business/archive/2016/04/the-divorce-gap/480333/.

[23] Hilary White, “The Mother of the Homosexual Movement – Evelyn Hooker, Ph.D.,” The Life Site News, (July 16, 2007).https://www.lifesitenews.com/news/the-mother-of-the-homosexual-movement-evelyn-hooker-phd

[24] Robert L. Kinney, III, “Homosexuality and Scientific Evidence: On Suspect Anecdotes, Antiquated Data, and Broad Generalizations,” Linacre Quarterly 82(4) (2015): 364–390.

[25] Như trên.

[26] P. Cameron, W. L. Playfair, and S. Wellum, “The Longevity of Homosexuals: Before and after the AIDS Epidemic,” Omega 29 (1994): 249–272.

[27] P. Cameron, K. Cameron, W. L. Playfair, “Does Homosexual Activity Shorten Life?” Psychological Reports 83(3 Pt 1) (1998): 847–66.

[28] David W. Purcell, Christopher H. Johnson, Amy Lansky, Joseph Prejean, Renee Stein, Paul Denning, Zaneta Gau, Hillard Weinstock, John Su, and Nicole Crepaz, “Estimating the Population Size of Men Who Have Sex with Men in the United States to Obtain HIV and Syphilis Rates,” The Open AIDS Journal 6 (2012): 98–107.

[29] R. S. Hogg, S. A. Strathdee, K. J. P. Craib, M.V. O’Shaughnessy, J. S. G. Montaner, M. T. Schechter, “Modelling the Impact of HIV Disease on Mortality in Gay Men,” International Journal of Epidemiology 26(3) (1997): 657–61.

[30] Joseph Nicolosi,“Who Were the APA ‘Task Force’ Members?”https://www.josephnicolosi.com/collection/2015/6/11/who-were-the-apa-task-force-members

[31] Matthew Hoffman, “Former President of APA Says Organization Controlled by ‘Gay Rights’ Movement,” The Life Site News, (June 4, 2012).https://www.lifesitenews.com/news/former-president-of-apa-says-organization-controlled-by-gay-rights-movement.

[32] Phyllis Schlafly, Who Killed The American Family? WND Books, (Nashville, Tenn. (2014).

[33] “Programme of Action of the International Conference on Population and Development,” International Conference on Population and Development (ICPD) in Cairo, Egypt, (5–13 September 1994).

[34] The Vice Chairman’s Staff of the Joint Economic Committee at the Request of Senator Mike Lee, “Love, Marriage, and the Baby Carriage: The Rise in Unwed Childbearing,”https://www.lee.senate.gov/public/_cache/files/3a6e738b-305b-4553-b03b-3c71382f102c/love-marriage-and-the-baby-carriage.pdf.

[35] Như trên.

[36] Robert Rector, “How Welfare Undermines Marriage and What to Do About It,” Heritage Foundation Report, (November 17, 2014).https://www.heritage.org/welfare/report/how-welfare-undermines-marriage-and-what-do-about-it

[37] Schlafly, Who Killed The American Family?

[38] Ron Haskins, “Three Simple Rules Poor Teens Should Follow to Join the Middle Class,” Brookings, (March 13, 2013).https://www.brookings.edu/opinions/three-simple-rules-poor-teens-should-follow-to-join-the-middle-class/;

[39] Rector, “How Welfare Undermines Marriage and What to Do About It.”

[40] Mark Regnerus, “Cheap Sex and the Decline of Marriage,” The Wall Street Journal (September 29, 2017).https://www.wsj.com/articles/cheap-sex-and-the-decline-of-marriage-1506690454