Hoa Kỳ được coi như quốc gia tuyến đầu chống lại chủ nghĩa cộng sản, là “thành trì cuối cùng” của thế giới tự do, nhất là trong thời gian Chiến Tranh Lạnh. Tuy nhiên vì sao những cuốn sách được trích dẫn nhiều nhất trong giới học thuật Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung lại toàn là sách của những người cộng sản? Ngày nay ở Hoa Kỳ, sự “đồng cảm” dành cho các phong trào chủ nghĩa cộng sản và các phong trào chủ nghĩa xã hội đạt đến một độ cao đáng sợ, nhất là ở bậc đại học và sau đại học. Vì sao lại như thế?

Kỳ thực, giới học thuật thế giới, nhất là những người vào đại học sau những năm 1960, ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, đặc biệt những sinh viên chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn là chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Điều này có quan hệ trực tiếp đến cách chủ nghĩa cộng sản thâm nhập và gặm nhấn dần dần nền giáo dục của nhân loại. Có rất nhiều người bị hệ tư tưởng cộng sản “tẩy não” trong vô thức mà không hề hay biết. Chủ nghĩa cộng sản đã làm điều này như thế nào?

Đề mục:

  • Giảng viên đại học mang tư tưởng tả khuynh nghiêm trọng
  • Cải biến các môn học truyền thống bằng tư tưởng cộng sản chủ nghĩa
  • Tạo ra bộ môn mới với mục đích nhồi nhét hình thái ý thức
  • Tiêm nhiễm các loại hình thái ý thức cấp tiến tả khuynh
  • Bài xích truyền thống vĩ đại của Hoa Kỳ
  • Bôi nhọ các tác phẩm kinh điển của văn minh phương Tây
  • Lũng đoạn sách giáo khoa và giáo dục đại cương
  • Cải tạo tư tưởng ở các trường đại học: Tẩy não và băng hoại đạo đức

1. Giảng viên đại học mang tư tưởng tả khuynh nghiêm trọng

Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến thanh niên, sinh viên ủng hộ chủ nghĩa xã hội hay hình thái ý thức cộng sản chủ nghĩa, hay chịu ảnh hưởng bởi các loại tư tưởng cấp tiếp như chủ nghĩa nữ quyền, bảo vệ môi trường v.v. (sẽ được bàn cụ thể trong các phần sau) là giáo dục đại học, chủ yếu vì đa số giáo sư đại học Hoa Kỳ đã theo tư tưởng tả khuynh.

Theo nghiên cứu “Quan điểm chính trị xã hội của giới giảng viên Hoa Kỳ” năm 2007, trong số 1.417 giảng viên đại học toàn thời gian được khảo sát, có 44,1% giáo sư cho rằng mình theo phái tự do, phái ôn hòa chiếm 46,1%, phái bảo thủ chỉ chiếm gần 9,2%. Trong các giảng viên của các trường cao đẳng cộng đồng, phái bảo thủ chiếm tỷ lệ cao hơn (19%), phái tự do thấp hơn một chút (37,1%). Còn ở các trường thuộc lĩnh vực nghệ thuật, thì phái tự do chiếm tỷ lệ cao đến 61% trong khi phái bảo thủ chỉ chiếm 3,9%. Cuộc nghiên cứu này còn chỉ ra rằng những giảng viên sắp nghỉ hưu còn mang tư tưởng tả khuynh nghiêm trọng hơn những giảng viên mới vào nghề. Trong những giảng viên thuộc độ tuổi 50-64, những người tự xưng là nhà hoạt động cánh tả chiếm 17,2%. Báo cáo này còn cho thấy đa số giảng viên đại học đều ủng hộ quyền đồng tính luyến ái và quyền phá thai. [1]

Những cuộc nghiên cứu sau năm 2007 cũng đã chứng minh xu hướng tả khuynh của giới giảng viên ở các trường đại học niên chế bốn năm ở Hoa Kỳ. Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí “Quan sát kinh tế” (Econ Journal Watch) năm 2016 đã khảo sát tình hình đăng ký cử tri của các giảng viên ngành khoa học xã hội và lịch sử ở 40 trường đại học hàng đầu của Hoa Kỳ và phát hiện rằng, trong số 7.243 giảng viên được khảo sát, có 3.623 người thuộc Đảng Dân chủ, 314 người thuộc Đảng Cộng hòa, tỷ lệ là 11,5:1. Trong năm khoa được điều tra thì khoa lịch sử có tỷ lệ mất cân bằng nhất, lên đến 35:1. So sánh với cuộc khảo sát năm 1968 thì thấy rằng: Trong các giảng viên thuộc khoa lịch sử thời bấy giờ, tỷ lệ ủng hộ Đảng Đân chủ so với Đảng Cộng hòa là 2,7:1. [2]

Một cuộc khảo sát khác năm 2016 về giảng viên đại học niên chế bốn năm đã phát hiện rằng khuynh hướng chính trị của các giảng viên không cân bằng, đặc biệt là ở New England. Cuộc điều tra này căn cứ theo số liệu năm 2014 đã phát hiện rằng tỷ lệ giáo viên theo phái tự do và phái bảo thủ ở các trường cao đẳng trong phạm vi toàn quốc là 6:1. Ở New England, tỷ lệ này lên đến 28:1. [3] Một nghiên cứu năm 2016 của Trung tâm nghiên cứu Pew đã phát hiện trong những người đã học cao học, có 31% có quan điểm theo phái tự do, 23% người nghiêng về phái tự do, chỉ có 10% giữ quan điểm của phái bảo thủ, 17% người nghiêng về phái bảo thủ. Nghiên cứu này phát hiện rằng từ năm 1994 đến nay, những người ủng hộ lập trường của phái tự do trong những người đã làm nghiên cứu sinh đã tăng lên đáng kể. [4]

Trong một hội thảo tại Viện Nghiên cứu Doanh nghiệp Hoa Kỳ (American Enterprise Institute) năm 2016, các học giả tham dự hội thảo đã chỉ ra rằng, ở Hoa Kỳ có khoảng 18% các nhà khoa học xã hội tự nhận là người theo chủ nghĩa Marx, chỉ có 5% tự nhận là người theo phái bảo thủ. [5]

Thượng nghị sỹ Ted Cruz từng bình luận về một trường luật uy tín mà ông từng học như sau: “Số người tự nhận là người theo chủ nghĩa cộng sản nhiều hơn số người theo Đảng Cộng hòa. Nếu yêu cầu bình chọn quốc gia này có nên trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa không, thì 80% số giảng viên sẽ bỏ phiếu tán thành, và 10% khác sẽ cho rằng ý tưởng này quá bảo thủ”. [6]

Chủ nghĩa cộng sản bắt đầu thâm nhập vào nền giáo dục Hoa Kỳ gần như ngay lập tức sau khi nó thâm nhập vào Hoa Kỳ. Từ đầu thế kỷ 20, trong giới trí thức Hoa Kỳ đã có nhiều người tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản hoặc các loại biến tướng của chủ nghĩa xã hội Fabian. [7]

Phong trào bài xích văn hóa truyền thống vào những năm 1960 ở Hoa Kỳ khiến đông đảo thanh niên, sinh viên phản truyền thống bước lên vũ đài lịch sử. Trong quá trình những người này trưởng thành, văn hóa lý luận cách mạng của chủ nghĩa Marx, đặc biệt là lý luận cấp tiến của phái Frankfurt đã ảnh hưởng rất lớn đến họ. Năm 1973, sau khi tổng thống Nixon rút quân đội Hoa Kỳ khỏi Chiến tranh Việt Nam, phong trào phản chiến đã mất đi mục tiêu trực tiếp, phong trào sinh viên bắt đầu đi vào thoái trào.

Tuy nhiên, những sinh viên cấp tiến được bồi dưỡng trong những phong trào sinh viên quy mô lớn vẫn không hề từ bỏ “lý tưởng” của họ, sau khi vào đại học, ưu tiên nghiên cứu của họ là các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn như báo chí, văn học, triết học, xã hội học, giáo dục, nghiên cứu văn hóa v.v.. Tốt nghiệp xong, họ vào làm việc ở những cơ quan có tầm ảnh hưởng lớn nhất đối với văn hóa, xã hội như cơ quan chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các hãng thông tấn và các trường đại học. Lúc này, học thuyết chỉ đạo họ là học thuyết “cuộc trường chinh bên trong thể chế” của Antonio Gramsci – nhà lý luận chủ nghĩa Marx người Ý. Cuộc “trường chinh” này là nhằm cải biến những truyền thống cốt lõi nhất của văn minh phương Tây.

Herbert Marcuse, nhà triết học theo phái Frankfurt, là người được những sinh viên nổi loạn phương Tây xem là “người cha tinh thần”. Năm 1974, ông ta khẳng định phe Cánh tả Mới không chết, “họ sẽ hồi sinh trong các trường đại học”. [8] Thực tế là, phe Cánh tả Mới không chỉ không chết, cuộc “trường chinh bên trong thể chế” của họ đã rất thành công. Một giáo sư phái cấp tiến từng viết lời tự sự như sau:

“Sau Chiến tranh Việt Nam, rất nhiều người trong chúng tôi không quay trở về lĩnh vực văn học; chúng tôi đi vào nắm giữ các vị trí về học thuật. Sau khi chiến tranh kết thúc, chúng tôi không còn xuất đầu lộ diện, và có một thời gian – đối với một số người thiếu cảnh giác mà nói – chúng tôi dường như đã biến mất. Giờ chúng tôi đã giữ danh hiệu giáo sư suốt đời, công việc cải tạo các trường đại học đã rốt ráo bắt đầu.” [9]

Thuật ngữ “Phần tử cấp tiến giữ danh hiệu giáo sư suốt đời” (tenured radicals) là thuật ngữ do học giả Roger Kimball đưa ra trong tác phẩm cùng tên xuất bản năm 1989. Thuật ngữ này chỉ những sinh viên cấp tiến từng tích cực trong phong trào phản chiến, phong trào dân quyền, hay phong trào nữ quyền của những năm 1960, rồi vào đại học giảng dạy và nắm giữ danh hiệu giáo sư suốt đời vào những năm 1980. Họ gieo rắc “lý tưởng chính trị” vào đầu các thế hệ sinh viên, tạo ra một thế hệ phần tử cấp tiến mới. Một số phần tử cấp tiền mới này đã trở thành chủ nhiệm khoa, viện trưởng, nắm giữ quyền phát ngôn và quyền hành chính khá lớn ở các học viện. Họ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy không phải nhằm mục đích khám phá chân lý, mà là lợi dụng học thuật làm công cụ để phá hoại truyền thống và nền văn minh phương Tây, lật đổ xã hội chủ lưu và chế độ chính trị chính thống ở phương Tây bằng cách đào tạo ra thêm nhiều phần tử cách mạng như họ.

Một khi có danh hiệu giáo sư suốt đời, các giáo sư có thể tham gia vào các loại hội đồng, có tiếng nói khá quan trọng về rất nhiều phương diện như tuyển dụng giảng viên mới, quy định các chuẩn mực trong học thuật, lựa chọn đề tài cho luận án tốt nghiệp, quyết định hướng nghiên cứu. Trong quá trình tuyển giáo viên, họ có rất nhiều cơ hội sử dụng quyền lực trong tay để gạt ra những ứng viên có hình thái ý thức không phù hợp với bản thân họ. Bởi vậy, những giảng viên đại học có tư tưởng truyền thống và nghiên cứu, giảng dạy theo quan niệm truyền thống liên tục bị đẩy ra ngoài. Khi thế hệ giảng viên già về hưu, đại bộ phận thế hệ giáo viên thay thế họ đều là những học giả theo cánh tả bị tư tưởng cộng sản chủ nghĩa tẩy não.

Gramsci, người đưa ra khái niệm “cuộc trường chinh bên trong thể chế”, đã chia phần tử trí thức thành hai loại: phần tử trí thức truyền thống và phần tử trí thức hữu cơ. Phần tử trí thức truyền thống là lực lượng trung kiên duy trì văn hóa và trật tự xã hội truyền thống, còn phần tử trí thức hữu cơ, thuộc giai cấp hay các nhóm mới nổi, lại diễn những vai diễn “đầy sáng tạo” trong quá trình tranh giành quyền đứng đầu, dẫn dắt các nhóm hay giai cấp đó. [10] “Giai cấp vô sản” lợi dụng các phần tử trí thức hữu cơ để đoạt lấy quyền quyết định về văn hóa, cuối cùng đoạt lấy quyền quyết định về chính trị.

Nhiều phần tử cấp tiến mang danh hiệu giáo sư suốt đời tự coi mình là “phần tử trí thức hữu cơ”, là những người chống lại chế độ hiện hành. Cũng như Gramsci, họ tuân theo câu “châm ngôn” của Marx: “Các nhà triết học chỉ là dùng các phương thức khác nhau để giải thích thế giới. Tuy nhiên, mục đích là để thay đổi thế giới.” [11]

Đối với cánh tả, giáo dục không phải là truyền thụ tri thức và tinh hoa của văn minh nhân loại, mà là để nhồi nhét cho sinh viên một loạt quan điểm chính trị cấp tiến, biến sinh viên thành những phần tử hoạt động xã hội, những “chiến sĩ chiến đấu cho công bằng xã hội”. Sau khi tốt nghiệp, những sinh viên này sẽ mang tư tưởng bất mãn đối với chế độ hiện hành và sự phản đối văn hóa truyền thống khuếch tán vào xã hội, cuối cùng chuẩn bị cho cuộc cách mạng phá hủy mọi thứ.

2. Cải biến các môn học truyền thống bằng tư tưởng cộng sản chủ nghĩa

Mọi người đã biết tại các quốc gia cộng sản, chủ nghĩa Marx-Lenin là tư tưởng chỉ đạo cho mọi môn học. Còn ở các quốc gia phương Tây luôn chú trọng tự do học thuật, trừ những tiêu chuẩn đạo đức và quy phạm học thuật phổ biến ra, lẽ ra không nên thiên về xu hướng học thuật cụ thể nào. Nhưng từ những năm 1930 trở lại đây, khi chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Marx, phái Frankfurt ồ ạt xâm nhập vào các trường đại học Hoa Kỳ, đã thay đổi rốt ráo các môn khoa học xã hội nhân văn.

2.1. Ngôn ngữ cách mạng chiếm lĩnh giới nhân văn ở Hoa Kỳ

Bruce Bawer đã viết trong cuốn sách “Cuộc cách mạng của các nạn nhân: Nghiên cứu thân phận nở rộ, tư tưởng tự do bị phong bế” rằng khi ông hỏi giáo sư sử học Alan Charles Kors của Đại học Pennsylvania ba người có ảnh hưởng nhất đối với ngành nhân văn của các trường đại học Hoa Kỳ là ai, giáo sư Kors liền một mạch nêu ra ba cuốn sách có tầm ảnh hưởng nhất là “Nhật ký trong tù” (Prison Notebooks) của Antonio Gramsci, “Phương pháp sư phạm của kẻ bị áp bức” (Pedagogy of the Oppressed) của Paulo Freire, và “Những người khốn khổ trên trái đất” (The Wretched of the Earth) của Frantz Fanon. [12]

Gramsci là một người theo chủ nghĩa Marx của Ý, đã bàn đến. Freire, một nhà lý luận giáo dục người Brazil, là người sùng bái Lenin, Mao Trạch Đông, Fidel Castro và Che Guevara. Cuốn sách “Phương pháp sư phạm của kẻ bị áp bức” của ông xuất bản năm 1968, và hai năm sau được tái bản bằng tiếng Anh, trở thành một trong những cuốn sách bắt buộc của các viện giáo dục ở Hoa Kỳ.

Bawer trích lời của nhà giáo dục Sol Stern: “Cuốn ‘Phương pháp sư phạm của những kẻ bị áp bức’ chẳng quan tâm đến bất cứ vấn đề giáo dục cụ thể nào, mà chỉ là một luận văn chính trị không tưởng nhằm kêu gọi lật đổ chế độ tư bản và xây dựng xã hội phi giai cấp”. [13] Thực ra, tác phẩm của Freire không có nội dung gì đáng kể ngoài việc liên tục nhắc đi nhắc lại quan điểm rằng trên thế giới chỉ tồn tại hai loại người: người áp bức và người bị áp bức. Như vậy, người bị áp bức không nên tiếp nhận sự giáo dục như trong quá khứ, mà nên cho họ biết rằng họ đang bị áp bức và kích động họ phản kháng.

Frantz Fanon sinh ra trên hòn đảo Pháp thuộc Martinique thuộc vùng biển Caribbe, đã tham gia chiến tranh chống thực dân Pháp ở Algeria. Cuốn “Những người khốn khổ trên trái đất” của ông được xuất bản năm 1961, mà lời tựa của cuốn sách được viết bởi Jean-Paul Sartre, một nhà triết học theo thuyết hiện sinh của Pháp, cũng là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Sartre đã khái quát tư tưởng của ông ta như sau: Những kẻ thực dân phương Tây là kẻ tà ác; còn những ai không phải là người phương Tây là những người bị xâm chiếm và bóc lột, vì thế họ là người cao thượng. Quan điểm này gắn nhãn con người không dựa trên đạo đức của họ, cũng là cách làm cơ bản trong các cuộc vận động cộng sản ở phương Đông, như cải cách ruộng đất, tiêu diệt tư sản thành thị, v.v…

Frantz Fanon kêu gọi người dân các nước thuộc địa tiến hành cách mạng vũ trang, lật đổ sự thống trị của thực dân, trong quá trình đó bạo lực sẽ khiến người dân “đoàn kết lại với nhau”. “Trên phương diện cá nhân, bạo lực là một thứ sức mạnh có tính thanh lọc. Nó giúp người dân bản địa thoát khỏi cảm giác thấp kém, tuyệt vọng và trạng thái thụ động; bạo lực giúp họ không còn sợ hãi và lấy lại sự tự tôn của mình”. [14]

Sartre thấm nhuần tư tưởng của Fanon, ông đã viết trong lời tựa của cuốn sách như sau: “Vì trong những ngày đầu của cuộc nổi dậy cần phải giết người: bắn chết một người châu Âu là một mũi tên trúng hai đích, vừa giảm đi một người áp bức đồng thời giảm đi một người bị áp bức: điều còn lại là một người chết và một người tự do; người còn sống lần đầu tiên cảm thấy nơi mình đang đứng là đất nước của mình.” [15]

Lý luận của Gramsci, Freire, và Fanon là những luận điệu lừa mị, đã dẫn dắt con người dùng nhãn quan đấu tranh giai cấp để quan sát lịch sử và xã hội. Nó có tính dụ hoặc và tính kích động cực lớn. Một khi để cho tư tưởng thù hận giai cấp này thâm nhập vào đầu, các sinh viên sẽ nhìn nhận cơ cấu xã hội và các hiện tượng bình thường bằng tâm thái đối kháng, và tất nhiên sẽ dẫn đến tâm lý bất mãn, phản đối, nổi loạn, thậm chí nổi dậy làm cách mạng.

Rốt cuộc, trường phái tư tưởng nào hay ai là nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất đối với ngành khoa học xã hội nhân văn ở các trường đại học Hoa Kỳ vẫn là một vấn đề tranh cãi. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng chủ nghĩa Marx, phái Frankfurt, học thuyết Freud và các lý luận chủ nghĩa hậu hiện đại (vốn kề vai sát cánh với chủ nghĩa cộng sản trong việc phá hoại văn hóa và đạo đức) đã chiếm vai trò chủ đạo trong ngành học này.

2.2. Lý luận cộng sản hoành hành trong giới học thuật

Kể từ những 1960, ngành nghiên cứu văn học của Hoa Kỳ đã có sự thay đổi căn bản ở các tiểu ngành như văn học Anh, văn học Pháp, văn học so sánh. Trong truyền thống, phê bình văn học là tôn vinh giá trị đạo đức và thẩm mỹ của các tác phẩm văn học kinh điển, coi văn học là một phương thức quan trọng để nâng cao tri thức, hun đúc tình cảm, bồi dưỡng nhân cách đạo đức, trau dồi thị hiếu về tri thức. Đối với người nghiên cứu văn học mà nói, tác phẩm văn học đặt ở vị trí số một, lý luận văn học phục vụ cho việc thưởng thức tác phẩm văn học được đặt ở vị trí thứ yếu.

Những năm 1960 là giai đoạn các phong trào phản văn hóa trong xã hội nổi lên ngùn ngụt khí thế, trong cộng đồng học thuật cũng bùng nổ những các loại “lý luận” văn học mới. Những lý luận muôn hình vạn trạng về triết học, tâm lý học, văn học và văn hóa đua nhau xuất hiện, mối quan hệ giữa lý luận và tác phẩm văn học diễn ra sự đảo chiều. Lý luận có tính ưu tiên hơn tác phẩm văn học, tác phẩm văn học trở thành ví dụ “tùy ý lựa chọn” để thuyết minh cho “hiệu quả” của lý luận. [16]

Rốt cuộc thì “lý luận” này là gì? Chúng đã đánh đổ mọi giới hạn của các môn học truyền thống như triết học, tâm lý học, xã hội học, phân tích tâm lý, biến thành một mớ hổ lốn hỗn độn với tham vọng giải thích tổng thể văn hóa và xã hội. Nhà lý luận văn học Jonathan Culler giải thích như sau: “Lý luận thường công kích mạnh mẽ những quan niệm thông thường với ý đồ thuyết phục chúng ta rằng những ‘quan niệm thông thường’ mà chúng ta vốn quen thuộc thực ra là được hình thành trong lịch sử, là thứ lý luận đã trở thành tự nhiên đến nỗi chúng ta gần như không nhận ra nó là một lý luận”. [17]

Nói cách khác, các lý luận học thuật hiện đại đã trắng trợn chế giễu, đảo ngược, phá hủy những nhận thức về thị phi, thiện ác, đúng sai – vốn được truyền thụ trong các gia đình truyền thống, tôn giáo tín ngưỡng, và luân thường đạo lý tốt xấu, rồi lại thay thế bằng giá trị quan tà ác, chẳng mang chút giá trị tích cực nào.

Tạm gác lại cái vỏ ngoài rối rắm, phức tạp mang danh học thuật của nó, cái gọi là “lý luận” này chẳng qua là một mớ bòng bong chắp vá từ chủ nghĩa Marx cổ điển, chủ nghĩa Marx mới, phái Frankfurt, phân tích tâm lý, thuyết giải cấu trúc, hậu cấu trúc, chủ nghĩa hậu hiện đại. Nói một cách đơn giản, “lý luận” chính là liên minh giữa lý luận của chủ nghĩa Marx và các chủ nghĩa phản truyền thống khác. Mục đích của nó là hình thành cái trục xoay nhằm phá hủy nền tảng văn minh nhân loại và là một kiểu ngụy trang của chủ nghĩa cộng sản để chen chân vào lĩnh vực học thuật phương Tây. Từ những năm 1960 đến nay, chủ nghĩa cộng sản đã đột phá rất nhanh trong các lĩnh vực như văn học, lịch sử, triết học v.v.. Dần dần chiếm được sự chi phối ở các môn khoa học xã hội nhân văn.

Trên thực tế, “lý luận”“lý luận phản biện” là những từ chỉ cùng một hiện tượng. Các loại nghiên cứu phản biện về luật, nhân chủng giới tính, xã hội, khoa học, y học, v.v. đều là ứng dụng mới của lý luận phản biện. Hiện tượng “lý luận” hoành hành trong lĩnh vực học thuật này thực chất là biểu hiện của việc chủ nghĩa cộng sản đã khuếch tán vào các lĩnh vực giáo dục và học thuật, hủy hoại thế hệ trẻ bằng những tư tưởng biến thái, mở đường cho mục đích cuối cùng là hủy diệt nhân loại.

2.3. Chính trị hóa các nghiên cứu văn học

Đối với phê bình văn học chủ nghĩa Marx mà nói, ý nghĩa của một tác phẩm văn học không nằm ở giá trị bên trong nó (tác phẩm văn học kinh điển thậm chí còn bị cho là căn bản không có giá trị nội tại), mà phụ thuộc vào việc nó phản ánh tư tưởng của giai cấp thống trị (chẳng hạn như về vấn đề chủng tộc, giới tính) và khiến tư tưởng đó trở thành tư tưởng thống trị như thế nào. Một nhà lý luận văn học chủ nghĩa Marx người Hoa Kỳ nổi tiếng đã thẳng thừng tuyên bố rằng “quan điểm chính trị” tạo nên “giới hạn tuyệt đối cho việc đọc và lý giải tác phẩm”. [18] Cũng chính là nói, khi phân tích bất cứ tác phẩm văn học nào, cần phải coi tác phẩm đó là câu chuyện ngụ ngôn chính trị, chỉ khi tìm ra “hàm nghĩa thâm sâu” về sự áp bức giai cấp, chủng tộc, giới tính trong tác phẩm đó thì mới được xem là lý giải “sâu sắc” “toàn diện” về tác phẩm đó.

Những người đến từ các quốc gia cộng sản chẳng xa lạ gì với kiểu “phê bình văn học” võ đoán và hoang đường này. Lãnh đạo ĐCSTQ Mao Trạch Đông từng tuyên truyền cái nhìn tự coi là “độc đáo” về tác phẩm “Hồng Lâu Mộng” – một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc như sau: “Hồng Lâu Mộng” viết về “bốn gia tộc lớn, tính đấu tranh giai cấp cực kỳ mãnh liệt, và cái chết của mấy chục mạng người”.

Lịch sử của ĐCSTQ và Liên Xô cho thấy, ở các nước cộng sản, phê bình văn học không phải lúc nào cũng là cuộc bàn luận tao nhã với những lời hay ý đẹp, có lúc nó sẽ biến thành cuộc đấu tranh đẫm máu và nước mắt. Ví dụ ở phương diện bề mặt, cuộc Đại Cách mạng Văn hóa nổ ra cũng liên quan đến việc bình luận một tác phẩm văn học. Hưởng ứng lời kêu gọi của Mao Trạch Đông về học tập Hải Thụy (một vị quan thanh liêm triều Minh), nhà sử học Ngô Hàm đã sáng tác vở kịch lịch sử “Hải Thụy bãi quan”. Ngày 10/11/1965, Giang Thanh – vợ thứ tư của Mao, và nhà lý luận cấp tiến Trương Xuân Kiều đã cùng hoạch định ra một bài phê bình do Diêu Văn Nguyên chấp bút, có tựa đề “Bình luận về vở kịch lịch sử Thụy Hải bãi quan” đăng trên báo “Văn Hối” của Thượng Hải. Họ quy kết “Thụy Hải bãi quan” có liên quan đến việc Bành Đức Hoài phản đối chính sách “ba ngọn cờ hồng” (chỉ những chính sách của ĐCSTQ đã gây ra nạn đói lớn là “Đường lối chung”, “Đại nhảy vọt” “Công xã nhân dân”). Bài viết phê phán vở kịch “Thụy Hải bãi quan” đã châm ngòi cho cuộc Đại Cách mạng Văn hóa.

So với phê bình văn học ở các học viện ở phương Tây mấy chục năm nay, việc ĐCSTQ áp đặt đấu tranh giai cấp vào phê bình văn học đối với tất cả các tác phẩm văn học quả là quá thô thiển. Nhưng phê bình văn học chủ nghĩa Marx mới ở phương Tây lại giống như một loại virus biến thể, nó trở nên mạnh hơn và mang độc tính lớn hơn. Sau khi trang bị những vũ khí lý luận mới, nó đưa những tác phẩm văn học kinh điển của văn hóa nhân loại lên bàn mổ để mổ xẻ, cắt xén và xuyên tạc, từ những tác phẩm văn học kinh điển của Hy Lạp, La Mã cổ đại cho đến các tác phẩm của Dante, Shakespeare và Victoria, không tác phẩm nào bị bỏ sót. Tuy những bình luận này sử dụng những thuật ngữ rối rắm, khó hiểu để tạo ra vẻ ngoài đường hoàng, cao thâm khó đoán, nhưng luận điệu chủ yếu chỉ nhằm để quy kết cho tác phẩm là mang định kiến về giai cấp bị áp bức, phụ nữ, dân tộc thiểu số.

Các phê bình “hiện đại” kiểu này dán nhãn cho những tác phẩm kinh điển là thuộc về “kiến trúc thượng tầng của giai cấp thống trị”, gây tác dụng làm quần chúng nhân dân bị tê liệt trước tình trạng bị áp bức, khiến con người không thể sinh ra “ý thức giai cấp cách mạng”. Học giả người Anh Roger Scruton đã đưa ra nhận xét thẳng thắn mà sâu sắc rằng: “Phương pháp của các nhà lý luận văn học mới thực sự là thứ công cụ lật đổ: ý đồ phá hoại giáo dục nhân văn từ bên trong, cắt đứt sợi dây đồng cảm vốn duy trì mối liên hệ của chúng ta với văn hóa của mình.” [19]

2.4. Lý luận của chủ nghĩa Marx về hình thái ý thức

Hình thái ý thức là khái niệm xuyên suốt trong các môn học ngành nhân văn dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx. Marx gọi những thứ như đạo đức, tôn giáo, tín ngưỡng, siêu hình học là hình thái ý thức. Ông ta cho rằng trong xã hội có giai cấp, hình thái ý thức chủ đạo là tư tưởng của giai cấp thống trị, mà giá trị của nó không phản ánh hiện thực chân thực, mà là bẻ cong hiện thực. [20]

Chủ nghĩa Marx mới của thế kỷ 20 coi phá bỏ văn hóa là một giai đoạn tất yếu của cách mạng, do đó cần phải sáng tác những tác phẩm văn học lớn dựa trên hình thái ý thức mới. Nhà chủ nghĩa Marx người Hungary – Georg Lukács định nghĩa “hình thái ý thức” “ý thức sai lầm” đối lập với “ý thức giai cấp” chân chính. Nhà chủ nghĩa Marx người Pháp Louis Althusser đưa ra khái niệm “bộ máy nhà nước về hình thái ý thức” (ideological state apparatuses), bao gồm tôn giáo, giáo dục, gia đình, pháp luật, chính trị, công đoàn, truyền thông, văn hóa v.v.. để phục vụ bộ máy nhà nước tàn bạo.

Trong khái niệm hình thái ý thức hàm chứa một kiểu ngụy biện gian xảo. Bất cứ xã hội hay chế độ nào đều có thể có mặt tiêu cực, chỉ ra mặt tiêu cực để sửa chữa và hoàn thiện nó là điều tất yếu. Nhưng Althusser và những người theo chủ nghĩa Marx không chỉ ra cụ thể những thiếu sót và khiếm khuyết của chế độ xã hội nào mà một mực phủ định tất cả với lý do kiến trúc thượng tầng của những chế độ này là do giai cấp thống trị dựng lên và duy trì nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.

Đây không phải là phân tích tính đúng sai, thật giả của một mệnh đề, mà là quy kết người đề xuất ra mệnh đề đó có động cơ ẩn giấu hoặc xuất phát điểm sai trái. Đây là một logic sai lầm thường thấy, gọi là “bỏ thuốc độc vào giếng” (poisoning the well) của các loại phê phán theo chủ nghĩa Marx. Cũng giống như nước đã bị bỏ thuốc độc rồi thì không ai có thể uống được, một người đã bị gièm pha bởi những lời đồn đại, bị bôi nhọ về nhân cách thì dù người đó nói có đạo lý thế nào đi nữa, người khác sẽ không tin lời nói của họ. Việc phê phán hình thái ý thức của Althusser là một trường hợp “bỏ thuốc độc vào giếng” có tính quy mô và phức tạp hơn.

Khái niệm bộ máy nhà nước về hình thái ý thức bao hàm mọi thứ của Althusser phản ánh cái nhìn thù hận cực đoan của chủ nghĩa cộng sản đối với xã hội nhân loại – nó muốn phủ định hoàn toàn, tiêu diệt triệt để và nhanh chóng. Đây là một biểu hiện cho thấy mục đích của chủ nghĩa cộng sản hòng ra sức tiêu diệt văn hóa nhân loại.

Khái niệm “hình thái ý thức” của chủ nghĩa Marx là một lý luận hời hợt, trừu tượng, cực đoan, là thứ định đề giả, vô giá trị nhằm phủ nhận hết thảy quan niệm đạo đức truyền thống. Những người theo chủ nghĩa Marx đã lặp lại lời nói dối này hàng vạn lần, bề ngoài tỏ vẻ phẫn nộ về mặt đạo đức nhằm che đậy ý đồ thực sự của mình, đã kích động và lừa dối được rất nhiều người.

2.5. Chủ nghĩa Marx hậu hiện đại

Từ đầu những năm 1960, một nhóm các nhà lý luận người Pháp đã đưa ra những lý luận rất nhanh trở thành vũ khí tư tưởng hữu hiệu nhất của chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa cộng sản trong giới học thuật Hoa Kỳ. Nhân vật đại biểu cho nhóm này là Jacques Derrida và Michel Foucault. Những số liệu gần đây đã cho thấy tầm ảnh hưởng của họ ngày nay.

Năm 2007, Foucault là tác giả được trích dẫn nhiều nhất trong các tác phẩm ngành nhân văn (2.521 lần). Derrida là tác giả được trích dẫn nhiều thứ ba (1,874 lần). [21] Có những quan sát đã chỉ rõ ra mối quan hệ giữa chủ nghĩa hậu hiện đại và chủ nghĩa Marx. [22] Chúng ta tạm gọi sự kết hợp giữa hai trường phái lý luận này là “chủ nghĩa Marx hậu hiện đại”.

Ngôn ngữ vốn có tính đa nghĩa, một tác phẩm có thể có nhiều cách giải thích, điều này là bình thường, ít nhất là từ thời Hy Lạp cổ đại. “Chủ nghĩa giải cấu trúc” của Derrida là một loại ngụy biện tinh vi, kết hợp giữa thuyết vô Thần và thuyết tương đối, nó phóng đại vô hạn tính đa nghĩa của ngôn ngữ để tách nhỏ cả những câu văn mà ý nghĩa đã rõ ràng, minh bạch.

Khác với thuyết vô thần thông thường, Derrida sử dụng ngôn ngữ triết học để biểu đạt quan điểm. Do vậy, quan điểm của ông ta không chỉ có tính sát thương đối với khái niệm “Thần”, mà cả các khái niệm liên quan đến tín ngưỡng truyền thống như “lý tính”, “quyền uy”, “ý nghĩa” v.v.. Những nhà lý luận chịu ảnh hưởng của Derrida liên tiếp mổ xẻ các khái niệm này. Biểu hiện bề mặt của nó khá phức tạp, thâm sâu khiến rất nhiều người rơi vào mê cung lý luận. Thuyết giải cấu trúc đã hoành hành trong giới nhân văn phương Tây suốt một thời gian dài, trở thành một trong những vũ khí sắc bén nhất của chủ nghĩa cộng sản để phá hủy tín ngưỡng, truyền thống và văn hóa.

Michel Foucault từng có một giai đoạn gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Lý luận của ông xoay quanh khái niệm “quyền lực”, cốt lõi có thể khái quát bằng một câu: “Không có chân lý, chỉ có quyền lực”, cũng có nghĩa là, quyền lực đã lũng đoạn quyền giải thích chân lý, vì thế bất cứ chân lý nào cũng đều là giả dối và không đáng tin cậy. Trong cuốn sách “Kỷ luật và trừng phạt”, Foucault lý luận: “Nhà tù rất giống với nhà máy, trường học, doanh trại, bệnh viện, mà các cơ sở này lại rất giống nhà tù; không lẽ điều này khiến người ta kinh ngạc sao?” [23] Coi các cơ cấu không thể thiếu trong xã hội như nhà tù, rồi sau đó kêu gọi mọi người lật đổ những “nhà tù” này, bản chất phản xã hội trong lý luận của Foucault biểu hiện thật rõ nét.

Những học giả trang bị cho mình thuyết giải cấu trúc, tư tưởng của Foucault và các lý luận phê bình khác thường biến mọi thứ thành tương đối, làm ô uế truyền thống và đạo đức. Họ đưa ra những châm ngôn như “mọi cách giải thích đều sai lầm”, “không có chân lý, chỉ có quyền lực”, “không có lịch sử, chỉ có tự sự”. Họ lý giải về những khái niệm như chân, thiện, Hoa Kỳ, chính nghĩa, v.v. một cách tương đối, rồi vứt bỏ nó như thứ giẻ rách.

Những sinh viên trẻ tuổi vừa mới ở bậc giáo dục đại cương không dám nghi ngờ cái uy của giáo sư, càng không thể chống cự nổi thứ lý luận ù tai nhức óc này, một khi bị cuốn vào đó thì sẽ rất khó vùng vẫy thoát ra. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến chủ nghĩa cộng sản mặc sức hoành hành trong lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn ở phương Tây.

3. Tạo ra bộ môn mới với mục đích nhồi nhét hình thái ý thức

Trong một xã hội lành mạnh, việc nghiên cứu phụ nữ hay nghiên cứu một chủng tộc nào đó là tiêu chí của một nền học thuật phát triển, hoàn toàn không có gì đáng bị chỉ trích. Nhưng sau các phong trào phản văn hóa vào những năm 1960 ở Hoa Kỳ, một số phần tử cấp tiến âm mưu mở rộng lý luận tả khuynh cấp tiến của họ vào các trường đại học và các viện nghiên cứu. Có những học giả cho rằng việc thành lập khoa nghiên cứu về người Hoa Kỳ gốc Phi (người da đen) không hẳn xuất phát từ nhu cầu phát triển học thuật mà là do bị đe dọa về chính trị. [24]

Năm 1968, một cuộc biểu tình của sinh viên đã buộc Trường Cao đẳng Bang San Francisco phải đóng cửa. Dưới áp lực của Hội Sinh viên Người da đen, trường này đã phải thành lập Khoa Nghiên cứu Người châu Phi đầu tiên ở Hoa Kỳ. Tầm nhìn của khoa này chủ yếu là để cổ vũ tinh thần cho sinh viên người da đen, từ đó, môn khoa học của người Hoa Kỳ gốc Phi chưa từng có đã ra đời. Thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học người da đen được đưa lên hàng đầu, tài liệu trên lớp được thay đổi để đưa vào các vấn đề về người Hoa Kỳ gốc Phi. Các môn như toán học, văn học, lịch sử, triết học, và các môn khác cũng trải qua những sửa đổi tương tự.

Tháng 10 năm 1968, 20 thành viên của hội sinh viên da đen của Trường Cao đẳng Santa Barbara thuộc Đại học California đã chiếm cứ trung tâm máy tính của trường, khiến nhà trường phải đóng cửa. Một năm sau, trường này đã phải thành lập Khoa Nghiên cứu Người da đen và Trung tâm Nghiên cứu Người da đen.

Tháng 4 năm 1969, hơn 100 sinh viên người da đen ở Đại học Cornell đã chiếm cứ tòa nhà hành chính của trường, huơ súng ngắn và băng đạn đòi thành lập khoa nghiên cứu người da đen mà toàn bộ giảng viên phải là người da đen. Khi một giảng viên đứng ra ngăn cản, một lãnh tụ sinh viên đã uy hiếp rằng: “Trong không đầy ba giờ nữa, toàn bộ Đại học Cornell sẽ không còn một ai sống sót.” Cuối cùng, Đại học Cornell đành phải nhượng bộ sinh viên da đen và trở thành trường thứ ba ở Hoa Kỳ thành lập Khoa Nghiên cứu Người da đen. [25]

Shelby Steele, sau này trở thành chuyên viên nghiên cứu cao cấp của Viện Nghiên cứu Hoover thuộc Trường Đại học Stanford, là một trong những nhân vật chính thúc đẩy việc thành lập Khoa Nghiên cứu Người da đen ở các trường đại học. Ông ta nói, dưới sự dẫn động của không khí thời đại, những người da trắng phụ trách các trường đại học mang “cảm giác tội lỗi” rất lớn, khiến họ sẽ đáp ứng bất cứ yêu cầu nào do đại diện của hội sinh viên da đen đề xuất. [26] Gần như cùng lúc đó, rất nhiều phòng nghiên cứu chuyên môn như nghiên cứu phụ nữ, nghiên cứu về người Hoa Kỳ La-tinh, nghiên cứu về người đồng tính đã đường hoàng tiến vào các trường đại học Hoa Kỳ. Đến ngày nay, ở Hoa Kỳ đâu đâu cũng có những chương trình nghiên cứu như vậy.

Lý luận căn bản của ngành nghiên cứu phụ nữ là khác biệt về giới tính không phải do sự khác biệt sinh học mà là do “kết cấu xã hội”. Khi quy kết rằng phụ nữ bị nam giới và chế độ phụ quyền áp bức trong thời gian dài, tôn chỉ quan trọng nhất của ngành nghiên cứu phụ nữ là nâng cao ý thức xã hội về phụ nữ, dẫn đến cải cách toàn diện trong xã hội, tức là cách mạng.

Một giáo sư theo chủ nghĩa nữ quyền của trường Santa Cruz thuộc Đại học California xuất thân từ một gia đình cộng sản nổi tiếng. Cô ta ngạo mạn tuyên bố mình là người cộng sản và là nhà hoạt động đồng tính nữ. Từ năm 1980, cô ta bắt đầu giảng dạy về chủ nghĩa nữ quyền và coi khuynh hướng tình dục của cô ta là một loại lối sống để khơi gợi ý thức chính trị. Nhưng động cơ khiến cô ta bước vào giảng đường đại học chính là vì có một người cộng sản nói với cô rằng: “Đây là nhiệm vụ cách mạng của cô.” Bản thân cô cũng công khai tuyên bố sẽ biến “dạy học thành một hình thức vận động chính trị cho tôi”. Với mục tiêu này, cô ta đã thành lập Khoa Nghiên cứu Nữ quyền tại Trường Santa Cruz thuộc Đại học California. [27] Trong một đề cương của khóa học, cô ta viết: đồng tính luyến ái nữ là “hình thức cao nhất của chủ nghĩa nữ quyền”, tức là cải biến khuynh hướng tình dục thành ý thức xã hội cao cấp nhất. [28]

Đại học Missouri đã thiết kế các chương trình học để dẫn dắt sinh viên đứng trên quan điểm của cánh tả để nhìn nhận chủ nghĩa nữ quyền, văn học, giới tính và hòa bình. Ví dụ, khóa học “Giới tính Phi pháp” (Outlaw Gender) coi giới tính là “sản phẩm nhân tạo do văn hóa tạo ra”, chứ không phải do tự nhiên sinh ra. Từ đó nhồi nhét vào đầu sinh viên một loại quan điểm dựa trên sự áp bức giới tính và sự phân biệt đối xử giữa các loại giới tính. [29]

Sự thâm nhập của chủ nghĩa cộng sản là nguyên nhân quan trọng của phong trào phản chiến kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai ở phương Tây. Trong gần mấy chục năm qua, một môn nghiên cứu mới ở các trường đại học Hoa Kỳ là Nghiên cứu Hòa bình (Peace Studies) cũng có liên quan tới sự thâm nhập của chủ nghĩa cộng sản. Học giả David Horowitz và Jacob Laksin, sau khi nghiên cứu 250 tổ chức có mối liên quan nào đó đến bộ môn mới này, đã đi đến kết luận rằng những tổ chức này bản chất là mang tính chính trị chứ không phải mang tính học thuật, mục đích chủ yếu của chúng là tuyển dụng sinh viên cho phe cánh tả phản chiến. [30]

Khi trích dẫn cuốn sách giáo khoa phổ biến “Nghiên cứu Hòa bình và Xung đột” (Peace and Conflict Studies), Horowitz và Laksin đã đặt ra động cơ về mặt hình thái ý thức cho lĩnh vực này. Khi giải thích vấn đề đói nghèo, cuốn sách này đã dùng luận điệu của chủ nghĩa Marx, cho rằng nguyên nhân gây ra nạn đói trên thế giới không phải do sản xuất không đủ mà là do phân phối không công bằng. Tác giả chỉ trích điền chủ và thương nhân bán nông sản rằng sự tham lam của họ đã khiến cho hàng trăm triệu người bị đói mỗi ngày. Mặc dù mục đích bề mặt của cuốn sách này là chống bạo lực, nhưng có một thứ bạo lực mà tác giả không những không phản đối, mà còn tán dương, đó là bạo lực trong quá trình thực hiện cách mạng của giai cấp vô sản.

Cuốn sách này có đoạn: “Mặc dù Cuba chưa phải là thiên đường nhân gian, và quyền tự do cá nhân và quyền công dân ở đây chưa được thực hiện rộng rãi, nhưng trường hợp của Cuba chứng minh rằng bạo lực cách mạng có lúc có thể mang lại cho quần chúng nhân dân điều kiện sống tốt hơn”. Cuốn sách này không đề cập một chữ nào đến sự độc tài của Fidel Castro hay những hậu quả thảm khốc mà cuộc Cách mạng Cuba gây ra.

Vì được viết sau sự kiện 11/9/2001 tại Hoa Kỳ, cuốn “Nghiên cứu Hòa bình và Xung đột” cũng đề cập đến vấn đề chủ nghĩa khủng bố. Điều khiến người ta kinh ngạc là tác giả cuốn sách lại có nhiều sự đồng cảm đến thế với phần tử khủng bố, thậm chí còn đưa từ “phần tử khủng bố” vào trong dấu ngoặc kép. Họ biện minh cho việc này như sau: “Việc đặt từ ‘phần tử khủng bố’ vào trong dấu ngoặc kép có thể khiến những độc giả vốn coi cách gọi này là đương nhiên cảm thấy rất kỳ quái. Tuy nhiên, chúng tôi làm vậy không phải muốn làm nhẹ tính chất khủng bố của hành động này, mà muốn chỉ ra rằng một ‘phần tử khủng bố’ trong mắt người này lại là một ‘chiến sĩ đấu tranh vì tự do’ trong con mắt người khác, qua đó nhấn mạnh cần phải giảm bớt sự phẫn nộ vốn là chính đáng [đối với phần tử khủng bố]”. [31]

Bản thân giới học thuật cần phải khách quan và tránh nuôi dưỡng mưu đồ chính trị. Những lĩnh vực học thuật mới này đã đặt một lập trường mang hình thái ý thức lên trên: Giảng viên của khoa nghiên cứu phụ nữ tất phải tin vào chủ nghĩa nữ quyền, giảng viên khoa nghiên cứu người da đen tất phải tin rằng những khó khăn của người Hoa Kỳ gốc Phi trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa là do sự kỳ thị của người da trắng gây ra. Mục đích tồn tại của các loại nghiên cứu này không phải để tìm ra chân lý, mà là để truyền bá, nhồi nhét hình thái ý thức.

Những môn học mới này là sản phẩm phụ của cuộc cách mạng văn hóa Hoa Kỳ. Một khi bước vào các trường đại học, chúng đã mở rộng phát triển, không ngừng đòi hỏi nhiều kinh phí hơn và mở rộng quy mô tuyển sinh, những sinh viên được đào tạo xong lại tiếp sức thêm để mở rộng những môn học này. Những lĩnh vực mới này đã bắt rễ sâu trong giới học thuật rồi.

Điều đáng nói là những môn học này được tạo ra bởi những người có tư tưởng xấu chịu ảnh hưởng của hình thái ý thức cộng sản. Mục đích của chúng là tạo ra và phóng đại mâu thuẫn giữa các nhóm người khác nhau, kích động thù hận để chuẩn bị cho cách mạng bạo lực. Những môn học này không có mối liên hệ đáng kể nào với những nhóm người tự xưng là đại biểu của nó (người Hoa Kỳ gốc Phi, phụ nữ, v.v.).

4. Tiêm nhiễm các loại hình thái ý thức cấp tiến tả khuynh

Trong cuốn sách “Phòng học một đảng: Các giảng viên cấp tiến ở các trường đại học hàng đầu của Hoa Kỳ đã tuyên truyền cho sinh viên và phá hoại nền dân chủ của chúng ta như thế nào” (One-Party Classroom: How Radical Professors at America’s Top Colleges Indoctrinate Students and Undermine Our Democracy), David Horowitz và Jacob Laksin đã liệt kê ra khoảng 150 môn học của cánh tả ở 12 trường đại học. Những môn học này che đậy ý đồ chính trị của chúng bằng ngôn ngữ học thuật, nhưng một số môn mà ngay cả những quy phạm học thuật cơ bản cũng không đếm xỉa tới, khiến những môn này rất giống với các môn chính trị ở các nước cộng sản.

“Khoa Nghiên cứu Đoàn thể Xã hội” của trường Santa Cruz thuộc Đại học California còn có một khóa thảo luận gọi là “Lý luận và thực tiễn của các phong trào xã hội và đối kháng” (The Theory and Practice of Resistance and Social Movements). Phần mô tả về khóa thảo luận này còn ghi rõ: “Mục tiêu của hội thảo này là tìm hiểu cách tổ chức cách mạng. Chúng ta sẽ tìm hiểu các nhóm người trong quá khứ và hiện tại đã và đang làm gì để chống lại, thách thức và lật đổ các hệ thống quyền lực, bao gồm (nhưng không chỉ giới hạn ở) chủ nghĩa tư bản, sự áp bức của nhà nước và phân biệt chủng tộc.” [32]

Bill Ayers, mang danh hiệu Giáo sư Ưu tú của trường Chicago thuộc Đại học Illinois, là một phần tử cánh tả cực đoan và là lãnh đạo của phong trào Weather Underground, ban đầu được gọi là Weathermen (người dự báo thời tiết), một phong trào của “Tổ chức Sinh viên Đấu tranh vì Xã hội Dân chủ” (Students for a Democratic Society – SDS). Năm 1969, phong trào “Người dự báo thời tiết” chuyển sang hoạt động ngầm và trở thành tổ chức khủng bố đầu tiên ở Hoa Kỳ. Tổ chức này ra sức kích động những sinh viên cấp tiến ở Hoa Kỳ tham gia vào các hoạt động khủng bố nhằm châm ngòi cho các cuộc xung đột sắc tộc.

Tổ chức này đã phát động đánh bom Đồi Capitol (trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ), Tổng cục Chỉ huy Cảnh sát Thành phố New York, Lầu năm góc và các văn phòng của Lực lượng Vệ binh Quốc gia. “Câu nói bất hủ” của Ayers được nhiều người biết đến là: “Giết sạch người giàu. Đập nát xe cộ, nhà cửa của họ. Đưa cách mạng về nhà, giết chết cha mẹ của bạn.” [33] Quan điểm của Ayers thể hiện trong các tác phẩm học thuật và lý lịch của ông ta khá tương đồng với nhau. Trong một cuốn sách của mình, ông ta đã nhấn mạnh cần phải vượt qua “định kiến” của chúng ta đối với tội phạm bạo lực vị thành niên. [34]

Do Ayers được một mạng lưới các phần tử cấp tiến cánh tả bảo vệ, Cục Điều tra Liên bang (FBI) đã không thể bắt được ông ta. Năm 1980, Ayers xuất hiện trở lại trước công chúng, nhờ lợi dụng sơ hở của pháp luật mà đã thoát được tội hình sự. Sau đó, Ayers trở thành một giảng viên ở trường Chicago thuộc Đại học Illinois, ở đó, ông ta nghiên cứu phương pháp giáo dục trẻ em từ sớm. Quan điểm chính trị của ông ta không hề thay đổi chút nào, không thể hiện sự ăn năn nào về những vụ tấn công khủng bố của mình năm xưa. Ayers được thăng chức lên làm phó giáo sư, rồi giáo sư, còn được trao cho danh hiệu hiện tại là Giáo sư Ưu tú. Ông ta còn nhận được danh hiệu Học giả Cao cấp, học hàm cao nhất của đại học này.

Mỗi lần thăng chức của Ayers đều cần được sự biểu quyết của các đồng nghiệp trong khoa. Bản thân việc này đã chứng tỏ trường đại học đã mặc nhiên thừa nhận và ủng hộ hành động khủng bố trước đây của ông ta.

5. Bài xích truyền thống vĩ đại của Hoa Kỳ

Năm 2014, một nhóm sinh viên của Đại học Công nghệ Kỹ thuật Texas (Texas Tech University) đã tiến hành một cuộc điều tra trong trường, họ đặt ra ba câu hỏi cho người được phỏng vấn: “Ai là người chiến thắng trong cuộc nội chiến?”, “Phó Tổng thống là ai?”, “Chúng ta giành được độc lập từ tay ai?” Thật bất ngờ, rất nhiều sinh viên được hỏi hoàn toàn không biết những kiến thức thông thường về lịch sử và chính trị này của Hoa Kỳ, nhưng lại thuộc như lòng bàn tay khi nói về chuyện tình cảm hôn nhân của những ngôi sao. [35]

Năm 2008, Viện Nghiên cứu Liên trường (Intercollegiate Studies Institute – ISI) đã thực hiện cuộc khảo sát ngẫu nhiên 2.508 người Hoa Kỳ, phát hiện chỉ có một nửa trong số những người được hỏi có thể nêu tên cả ba nhánh trong cơ cấu tam quyền phân lập của Hoa Kỳ. [36] Khi trả lời 33 câu hỏi dễ hiểu trong đề thi về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân thì có đến 71% người trả lời có điểm trung bình là 49, tức là điểm trượt. [37]

Học lịch sử Hoa Kỳ không chỉ để hiểu về quá trình hình thành một quốc gia, mà cũng để hiểu quốc gia đó được xây dựng trên giá trị quan nào, và để bảo vệ những giá trị truyền thống này thì phải đánh đổi những gì. Duy chỉ có vậy, mọi người mới có thể trân quý những gì đang có hôm nay và cũng sẽ bảo vệ truyền thống này để truyền lại cho thế hệ sau.

Lãng quên lịch sử chính là cắt đứt truyền thống; không hiểu được nghĩa vụ công dân sẽ tạo điều kiện cho chính phủ độc tài xuất hiện. Chúng ta không khỏi thắc mắc giáo dục lịch sử và giáo dục công dân của Hoa Kỳ rốt cuộc đã xảy ra vấn đề gì? Câu trả lời nằm ở sách giáo khoa mà sinh viên Hoa Kỳ sử dụng và qua chính những thầy cô giáo của họ.

Howard Zinn, tác giả cuốn sách giáo khoa lịch sử phổ biến nhất, cuốn “Lịch sử Dân tộc Hoa Kỳ”, là người theo chủ nghĩa Marx. Cuốn sách này mang đến một ấn tượng cho người đọc là tất cả những tấm gương anh hùng và những câu chuyện làm lay động lòng người trong lịch sử Hoa Kỳ đều chỉ là những lời dối trá vô liêm sỉ, và rằng lịch sử thật sự của Hoa Kỳ đầy rẫy những áp bức, bóc lột và diệt chủng. [38]

Một giáo sư kinh tế học của Đại học Boston cho rằng những phần tử khủng bố vốn là kẻ thù của Hoa Kỳ là những “chiến sĩ chân chính chiến đấu vì tự do”, còn Hoa Kỳ mới là ma quỷ đích thực. Trong một bài viết năm 2004, ông ta so sánh những kẻ khủng bố tấn công Trung tâm Thương mại Thế giới ngày 11/9 với những người phản kháng đã nổ phát súng đầu tiên tại Lexinton, dấy lên cuộc chiến tranh giành độc lập cho Hoa Kỳ. [39]

6. Bôi nhọ các tác phẩm kinh điển của văn minh phương Tây

Năm 1988, các giảng viên và sinh viên phái cấp tiến ở Đại học Stanford đã phản đối bộ môn Lịch sử Văn minh Phương Tây của trường này. Họ hô to khẩu hiệu: “Hây, hây, hô, hô! Xóa bỏ bộ môn Lịch sử Văn minh Phương Tây!” Đại học Stanford đã phải nhượng bộ những người phản đối mà thay thế Lịch sử Văn minh Phương Tây bằng môn “Văn hóa, Tư tưởng và Giá trị” mang những nét đặc trưng đa văn hóa rõ rệt. Môn học mới này tuy không xóa bỏ một số nhân vật kinh điển trong văn hóa phương Tây như Homer, Plato, Thánh St. Augustine, Dante Alighieri và Shakespeare, nhưng lại quy định phải học một số tác phẩm viết về một số nhóm người thiểu số, phụ nữ, và các nhóm người khác bị cho là bị áp bức trong lịch sử.

William Bennett, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Hoa Kỳ lúc bấy giờ, phê phán sự thay đổi này là giáo trình được xây dựng do bị hăm dọa. Dù vậy, nhiều trường đại học nổi tiếng khác vẫn tiến hành cải cách này, các trường hạng thấp hơn cũng thay đổi theo để không bị “tụt hậu”. Trong vài năm, các môn giáo dục đại cương ở các trường đại học Hoa Kỳ đã trải qua những biến đổi long trời lở đất.

Nhà tư tưởng phái bảo thủ Dinesh D’Souza, trong cuốn “Giáo dục phi tự do” (Illiberal Education) đã dùng cuốn sách “Tôi, Rigoberta Menchu: Một phụ nữ Ấn Độ ở Guatemala” (I, Rigoberta Menchu: An Indian Woman in Guatemala) để giải thích định hướng hình thái ý thức của các môn học mới ở Đại học Stanford. Cuốn sách kể về quá trình trưởng thành của một cô gái trẻ người Ấn Độ ở Guatemala. Sau khi kẻ sát nhân mất trí vốn sát hại cha mẹ cô bị thảm sát, cô quyết tâm phản kháng, trong quá trình đó, tư tưởng của cô càng ngày càng cực đoan. Cô dần dần ủng hộ phong trào giành quyền tự quyết của người da đỏ ở Nam Hoa Kỳ, vừa phản đối văn hóa Hoa Kỳ La-tinh bị Âu hóa. Ban đầu, cô trở thành một người theo chủ nghĩa nữ quyền, rồi theo chủ nghĩa xã hội, cuối cùng đi theo chủ nghĩa Marx. Trong phần gần cuối cuốn sách, cô kể lại mình bắt đầu tham gia cuộc họp “Mặt trận Nhân dân” ở Paris như thế nào, trong đó bàn về những chủ đề như “thiếu niên tư sản”, “Molotov Cocktail” (tức là bom xăng)… Một chương trong cuốn sách có tiêu đề “Rigoberta từ bỏ hôn nhân và vai trò làm mẹ”. [40]

Một sự phá hoại khác là phong trào “phải đạo chính trị” của cánh tả. Nó đã loại bỏ các tác phẩm kinh điển khỏi các trường đại học của Hoa Kỳ, gây ra những hậu quả mang tính phá hoại ở những phương diện sau:

1. Thay thế các tác phẩm văn học kinh điển có giá trị thâm thúy, bất hủ bằng những tác phẩm mang nội dung nông cạn, đầy những tình tiết về cách mạng, cái gọi là văn học của kẻ bị áp bức.

2. So sánh các tác phẩm văn học loại này với các tác phẩm kinh điển cũng bằng như để chúng có được vị trí như các tác phẩm kinh điển rồi tăng cường ảnh hưởng của các tác phẩm đó lên tâm lý của sinh viên. Còn các tác phẩm văn học kinh điển lại bị đặt ngang hàng với các tác phẩm trung bình để hạ thấp giá trị của các tác phẩm kinh điển.

3. Tư tưởng chỉ đạo của các tác phẩm văn học kinh điển bị lý giải vận dụng lý luận phê phán, nghiên cứu văn hóa, nhận diện chính trị và “phải đạo chính trị”. Các học giả hào hứng nghiên cứu sự kỳ thị giới tính và kỳ thị sắc tộc trong các vở kịch của Shakespeare, hay khuynh hướng đồng tính luyến ái của các nhân vật trong những tác phẩm kinh điển v.v., chẳng khác nào bóp méo và lăng mạ các tác phẩm kinh điển.

4. Những sinh viên chịu ảnh hưởng của loại tư tưởng này rất khó tin vào nhân cách cao thượng, thành tựu vĩ đại và bài học đạo đức trong những tác phẩm kinh điển, nên đã dưỡng thành thái độ căm ghét, miệt thị, thậm chí chán ghét mọi thứ.

Trong giáo dục văn học truyền thống, đề tài cơ bản chứa đựng trong các tác phẩm kinh điển đều hướng tới các giá trị đạo đức như lòng bác ái, chính nghĩa, trung thành, dũng cảm, tinh thần hy sinh bản thân… Còn giáo dục lịch sử đều xoay quanh những sự kiện trọng đại trong quá trình thành lập và phát triển quốc gia, trong đó rất nhiều sự kiện giúp người ta hồi tưởng lại nguồn gốc lập quốc, cũng như những giá trị căn bản nhất.

Vì phần lớn các tác phẩm văn học kinh điển phương Tây đều do người châu Âu da trắng viết nên những người theo cánh tả lợi dụng khẩu hiệu “đa văn hóa” hoặc “nữ quyền” mà kêu gọi mọi người đọc nhiều hơn những tác phẩm văn học của các tác giả là phụ nữ, người da màu, v.v.. Còn trong giảng dạy lịch sử, giáo dục hiện đại thiên về mô tả quá trình lịch sử của quốc gia thành giai đoạn đen tối, chỉ có bóc lột và nô dịch phụ nữ và các nhóm người thiểu số khác. Giáo dục lịch sử không còn là sự hồi tưởng lại truyền thống lịch sử vẻ vang mà là để nhồi nhét “cảm giác tội lỗi” đối với phụ nữ và các nhóm người thiểu số.

Thời gian người ta dành cho việc đọc là có hạn. Khi giáo dục cố ý hướng con người chú trọng vào các tác phẩm mang tính “phải đạo chính trị”, thì thời gian người ta dành cho việc đọc các tác phẩm kinh điển truyền thống đã giảm đi rồi. Kết quả tạo ra một thế hệ sinh viên quay lưng lại với cội nguồn văn hóa của chính mình, nhất là giá trị quan được truyền thừa qua văn hóa và bắt nguồn từ tín ngưỡng. Văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc, mỗi chủng tộc đều dựa trên cội nguồn là nền tảng tín Thần. Văn hóa có thể đa dạng nhưng không thể bị pha tạp một cách cố ý như vậy. Việc pha tạp văn hóa chính là đã chặt đứt cầu nối giữa các chủng tộc với văn hóa của chính họ.

7. Lũng đoạn sách giáo khoa và giáo dục đại cương

Nhà kinh tế học Paul Samuelson vô cùng coi trọng vai trò của sách giáo khoa. Ông nói: “Tôi không quan tâm ai là người soạn ra luật của một quốc gia – hay thảo ra các điều ước – nếu như tôi được viết sách giáo khoa kinh tế học của quốc gia đó.” [41] Sách giáo khoa phát hành số lượng lớn, có tiếng nói quyết định và có ảnh hưởng cực lớn đối với học sinh, sinh viên. Bởi vậy lũng đoạn sách giáo khoa chính là nắm giữ quyền chủ đạo trong việc định hình tư tưởng của giới trẻ.

Những học giả, giáo sư theo tư tưởng cấp tiến sau khi nhận được danh hiệu giáo sư suốt đời và đạt được danh tiếng nhất định trong giới học thuật, họ tiếp tục khống chế các phòng xuất bản và các hội đồng của các trường đại học. Vì thế, các loại tư tưởng cấp tiến đã được đưa vào sách giáo khoa, được ngụy trang thành tri thức để cưỡng chế nhồi nhét cho sinh viên. Trong số sách giáo khoa và sách bắt buộc phải đọc trong một số môn học mà giáo sư chỉ định, số tác phẩm theo chủ nghĩa Marx đã vượt quá số tác phẩm theo bất cứ trường phái tư tưởng nào khác. Cuốn sách “Lịch sử dân tộc Hoa Kỳ” của Howard Zinn được đề cập đến ở trên là một ví dụ trong nhiều sách bắt buộc phải đọc trong bộ môn lịch sử, kinh tế, văn học, nghiên cứu phụ nữ, v.v..

Giới học thuật cánh tả sau khi đã hình thành một thế lực tương đối, họ có thể lợi dụng cơ chế thẩm định chéo thường thấy trong giới học thuật Hoa Kỳ để áp chế những người có quan điểm bất đồng. Bất cứ bài luận văn nào chất vấn về hình thái ý thức của cánh tả chắc chắn sẽ bị những người cánh tả và đồng nghiệp của họ bác bỏ.

Nhiều tập san chuyên ngành nhân văn lấy lý luận phê phán làm định hướng, nội dung đầy những thuật ngữ học thuật khó hiểu, chủ yếu đều là phủ nhận Thần, phủ nhận văn hóa truyền thống, kích động cách mạng lật đổ trật tự xã hội, chính trị và kinh tế hiện tại. Còn có một loại học bổng nhằm chứng minh rằng mọi quy phạm và đạo đức truyền thống, kể cả quy trình khoa học, đều là “kết cấu xã hội” cốt để biến chuẩn mực chủ quan của mình trở thành quan niệm phổ quát, sau đó áp đặt quan niệm đó lên đại chúng xã hội, dùng nó để củng cố địa vị thống trị của giai cấp và nhóm người mà họ đại diện.

Năm 1996, giáo sư vật lý Alan Sokal của Đại học New York công bố một bài luận trên chuyên san nghiên cứu văn hóa “Social Text” thuộc Đại học Duke của Hoa Kỳ, với tiêu đề “Vượt qua các ranh giới: Tiến tới một thuyết minh đột phá về lực hấp dẫn lượng tử” (Transgressing the Boundaries: Towards a Transformative Hermeneutics of Quantum Gravity). Với dẫn chứng phong phú gồm 109 chú giải và 219 nguồn tham khảo, bài luận này lập luận rằng “lực hấp dẫn lượng tử” cấu thành từ ngôn ngữ và xã hội. [42]

Cùng ngày bài luận này được xuất bản, Sokal tuyên bố trên chuyên san “Lingua Franca” rằng bài luận của ông chỉ là trò đùa đả kích, nói rằng bài luận ông gửi cho chuyên san “Social Text” chẳng qua chỉ là một thử nghiệm của một nhà vật lý học về các nghiên cứu văn hóa mà thôi. [43]

Trong buổi phỏng vấn với chương trình radio “All Things Considered”, Sokal phát biểu rằng sở dĩ ông làm vậy là lấy ý tưởng từ cuốn sách “Sự mê tín bậc đại học: Giới học thuật phái tả và những tranh cãi của họ với khoa học” (Higher Superstition: The academic left and its quarrels with science) xuất bản năm 1994. Tác giả của cuốn sách này nói rằng: Một số ấn phẩm khoa học nhân văn cho xuất bản bất cứ thứ gì, miễn là thứ đó mang “tư tưởng phù hợp với cánh tả” và trích dẫn tác phẩm của các nhà tư tưởng cánh tả nổi tiếng. Sokal đã thử nghiệm điều này bằng cách viết ra bài luận mang đậm hình thái ý thức cánh tả, đưa vào những trích dẫn bất kỳ, hoàn toàn vô vị. [44]

Sau đó, ông viết: “Kết quả thử nghiệm nhỏ của tôi chí ít đã chứng minh rằng một số lĩnh vực thời thượng của giới học thuật cánh tả Hoa Kỳ đã trở nên lười tư duy. Biên tập viên của tạp chí “Social Text” thích bài viết của tôi, bởi vì họ thích kết luận của nó: “Nội dung và phương pháp luận của khoa học hậu hiện đại tạo ra bàn đạp tri thức vững chắc cho kế hoạch chính trị phái cấp tiến”. Rõ ràng là họ cảm thấy không cần phải phân tích chất lượng của chứng cứ, tính hữu hiệu của luận cứ, hay ngay cả tính liên quan của luận cứ đối với cái gọi là kết luận này.” [45] Trò đùa này của Sokal đã cho thấy rõ rằng lĩnh vực nghiên cứu văn hóa và lý luận phê phán đã thiếu mất nguyên tắc học thuật hay tính đáng tin cậy.

Khi xem qua các tiêu đề các báo cáo của hội nghị thường niên của các hiệp hội học thuật lớn của Hoa Kỳ, cũng có thể thấy rõ sự thâm nhập của chủ nghĩa cộng sản vào ngành khoa học xã hội trong mấy chục năm qua. Hiệp hội Ngôn ngữ Hiện đại (Modern Language Association) là hiệp hội lớn nhất trong số đó, với 25.000 hội viên, chủ yếu là những học giả và giáo sư trong lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ hiện đại. Số người tham gia hội nghị của hiệp hội này mỗi năm đều vượt trên 10.000 người.

Tỷ lệ các báo cáo chuyên đề đăng trên trang web của hiệp hội này sử dụng khung lý luận của chủ nghĩa Marx, trường phái Frankfurt, thuyết giải cấu trúc, thuyết hậu cấu trúc, và các loại thuyết biến thể khác v.v.. Những báo cáo khác lại dùng chủ nghĩa nữ quyền, nghiên cứu đồng tính luyến ái, chính trị bản sắc (identity politics) và các xu thế khác của phái cấp tiến. Các hiệp hội học thuật khác, bao gồm cả Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ (American Sociological Association), cũng có khuynh hướng tương tự, chỉ khác nhau về mức độ.

Phải chỉ ra rằng, các trường đại học Hoa Kỳ có truyền thống giáo dục đại cương, và dù là sinh viên nhập học chuyên ngành nào, cũng phải học một số môn nhân văn bắt buộc. Ngày nay, các môn bắt buộc cơ bản đều do các giảng viên ngành văn học, lịch sử, triết học, xã hội học giảng dạy. Học giả Hoa Kỳ Thomas Sowell đã chỉ ra rằng, đúng như tên gọi của nó, những môn học bắt buộc là những môn học mà sinh viên không thể không học, mà khi lên lớp thì sẽ không tránh khỏi bị giảng viên nhồi nhét hình thái ý thức tả khuynh của họ, thậm chí lấy điểm số làm động cơ để khiến sinh viên tiếp nhận quan điểm của họ. Sinh viên nào dám chất vấn quan điểm của giảng viên thì sẽ bị cho điểm kém. [46] Vì thế, các quan điểm chủ nghĩa Marx của các giáo sư ngành khoa học xã hội và nhân văn không chỉ làm ô nhiễm sinh viên học chuyên ngành này, mà còn ảnh hưởng đến gần như toàn bộ sinh viên.

Sinh viên đại học thích được tôn trọng như người trưởng thành, song kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều, kiến thức có hạn, mà đại học lại là một môi trường tương đối hẹp, họ sẽ không tưởng tượng nổi rằng các giáo sư mà mình tôn kính lại lợi dụng sự ngây thơ, nhẹ dạ của sinh viên để nhồi nhét vào đầu họ bộ hình thái ý thức và giá trị quan sai lầm, độc hại. Phụ huynh trả học phí cao chỉ hy vọng con cái họ nắm vững những kỹ năng và tri thức hữu dụng, để có chỗ đứng trong xã hội sau này. Làm sao họ có thể ngờ được rằng con cái họ bị tước đoạt cơ hội học tập quý báu, ngày này qua ngày khác bị đào tạo thành những người đi theo hình thái ý thức cấp tiến, mà những gì chúng tiếp thu sẽ ảnh hưởng đến phần đời còn lại của chúng?

Khi hết thế hệ trẻ này đến thế hệ trẻ khác bước vào hệ thống giáo dục đã bị ma quỷ cộng sản thâm nhập sâu này, học những sách giáo khoa do những người cánh tả biên soạn và nhồi nhét những lý luận lệch lạc, thì mục tiêu phá hủy đạo đức, phá hoại văn hóa và cuối cùng là hủy diệt nhân loại của chủ nghĩa cộng sản cũng tới ngày càng gần.

8. Cải tạo tư tưởng ở các trường đại học: Tẩy não và băng hoại đạo đức

Cùng với sự hoành hành của hình thái ý thức chủ nghĩa Marx ở khắp các trường đại học, bắt đầu từ những năm 1980, chính sách của các trường đại học ngày càng tập trung vào việc ngăn chặn những ngôn luận “có tính xúc phạm”, đặc biệt là đối với phụ nữ hay người dân tộc thiểu số. Học giả người Hoa Kỳ Donald Alexander Downs chỉ ra rằng, từ năm 1987 đến 1992, ước tính có khoảng 300 trường đại học Hoa Kỳ thực thi chính sách điều chỉnh ngôn luận, dùng hình thức bán pháp luật để nghiêm cấm những phát ngôn bị coi là “có tính xúc phạm” những nhóm người hoặc chủ đề nhạy cảm. [47]

Những người ủng hộ những điều cấm này có lẽ xuất phát từ lòng tốt, nhưng hành động của họ lại đưa đến một kết quả nực cười, đó là số người tuyên bố quyền của họ không thể bị xâm phạm không ngừng tăng lên. Trên thực tế, đây không phải là quyền công dân được bất kỳ pháp luật nào công nhận, hay có thể vin vào bất cứ lý do nào, nhưng chủ nghĩa Marx hiện diện ở mọi phương diện văn hóa đã khiến cho bất cứ ai cũng có thể tìm ra lý do để tuyên bố mình thuộc “nhóm người bị áp bức”, lấy lý do như văn hóa, lịch sử dòng họ, màu da, giới tính, khuynh hướng tình dục, v.v.. Mà nhân viên hành chính của các trường đại học cũng liên tục dành cho những người tự xưng là người bị hại sự đối đãi đặc biệt.

Theo logic của chủ nghĩa Marx, người bị áp bức, trong trường hợp nào cũng là người có đạo đức đúng đắn, và nhiều người còn không dám thắc mắc về tính xác thực của việc họ tự xưng là người bị xúc phạm. Thứ logic hoang đường này là dựa trên sự bóp méo tiêu chí để nhận định thế nào là đạo đức. Khi ngày càng có nhiều người đồng thuận với kiểu logic này (theo chủ nghĩa Lenin hay Stalin, điều này được gọi là tính giác ngộ giai cấp cao) thì người ta, vô hình trung, đã từ bỏ tiêu chuẩn truyền thống về thiện ác, tốt xấu, và thay bằng tư tưởng của số đông. Điều này biểu hiện cực kỳ rõ nét ở các quốc gia cộng sản độc tài, nơi người vô sản “bị áp bức” có lý do đường hoàng để giết hại “kẻ áp bức” là các địa chủ và nhà tư bản.

Một trong những nguyên nhân khiến các trường hợp tùy ý tuyên bố bản thân là “người bị xúc phạm” không ngừng tăng lên là do các học giả theo chủ nghĩa Marx trong lĩnh vực văn hóa đã tạo ra hàng loạt khái niệm tưởng như đúng mà lại là sai để không ngừng mở rộng định nghĩa về sự “kỳ thị”, trong đó có những khái niệm như “công kích vi mô” (microaggression), “cảnh báo để chuẩn bị tinh thần” (trigger warning) và “vùng an toàn” (safe space) v.v.. Các nhà quản lý trường đại học cũng đã đưa ra các chính sách tương ứng và các chương trình đào tạo bắt buộc như “đào tạo về các vấn đề nhạy cảm” “đào tạo về tôn trọng sự đa dạng”, v.v..

Cái gọi là “Công kích vi mô” được lý giải là sự xúc phạm ngầm, phi ngôn ngữ mà một người có thể gặp trong cuộc sống thường ngày, trong đó, người xúc phạm có thể hoàn toàn vô ý hoặc không ý thức được. Loại xúc phạm vô ý hay không biết này được gọi là “không nhạy cảm” (insensitive) (theo chủ nghĩa Lenin hay Stalin, điều này được gọi là nhận thức xã hội thấp). Các khóa đào tạo về những vấn đề nhạy cảm (sesitivity training) đã trở thành một bộ phận chính cho sinh viên đại học khi mới nhập học. Sinh viên được cảnh báo không được nói những từ ngữ nào, không được mặc những trang phục gì, nếu không sẽ bị quy là có hành vi “công kích vi mô” đối với quy định của nhà trường.

Ở một số trường học còn không được nói câu “Hoan nghênh bạn đến Hoa Kỳ” vì có thể cấu thành hành vi kỳ thị, bị coi là công kích vi mô vì có thể xúc phạm các nhóm thiểu số từng bị đối xử bất công ở Hoa Kỳ trong lịch sử như người da đỏ, người châu Phi, người Nhật, người Hoa, khiến họ nhớ lại lịch sử tủi nhục của tổ tiên họ.

Trường Đại học California công bố một danh sách dài những câu nói được cho là “công kích vi mô”, trong đó có cả những câu thường được sử dụng như “The United States is a melting pot” “Hoa Kỳ là cái nồi lẩu [đa sắc tộc]” (vì cho rằng nói thế là phân biệt chủng tộc), “the United States is a land full of opportunities”“Hoa Kỳ là miền đất đầy cơ hội” (vì cho rằng nói thế phủ nhận sự bất bình đẳng chủng tộc) và “men and women have the same chance of success”“nam nữ đều có cơ hội thành công như nhau” (vì cho rằng nói thế phủ nhận sự bất bình đẳng về giới tính). [48] Người công kích vi mô sẽ bị kỷ luật hành chính, vì họ cản trở nhà trường xây dựng cái gọi là “vùng an toàn”.

Sau đây là một ví dụ điển hình về “công kích vi mô” xảy ra ở khu học xá Indianapolis của Đại học Indiana thuộc Đại học Purdue (IUPUI). Một sinh viên da trắng làm công việc trông coi khu học xá được nhà trường cho biết là đã vi phạm Sắc lệnh Quấy rối Chủng tộc chỉ vì đọc cuốn sách có tiêu đề “Sinh viên Ireland của Đại học Notre Dame đã đánh bại Đảng 3K (Ku Klux Klan) như thế nào” (Notre Dame vs. The Klan: How the Fighting Irish Defeated the Ku Klux Klan) trong một phòng nghỉ giải lao của khu học xá. Hai đồng nghiệp sinh viên của sinh viên này cảm thấy bị xúc phạm vì trang bìa của cuốn sách có hình chụp cuộc họp của đảng 3K trên trang bìa cuốn sách, bèn gửi đơn khiếu nại quy kết rằng việc sinh viên kia chọn cuốn sách này để đọc ở phòng nghỉ giải lao là hành vi xúc phạm chủng tộc. Văn phòng xử lý tranh chấp của nhà trường cho rằng sinh viên này đã vi phạm quy định về kỳ thị chủng tộc. Sau đó, trước áp lực của các nhóm như Tổ chức Quyền Giáo dục của Cá nhân, nhà trường đành phải nhượng bộ rằng sinh viên này vô tội. [49]

Cái gọi là “đào tạo về các vấn đề nhạy cảm”“đào tạo về tôn trọng sự đa dạng” này, về bản chất, có thể so sánh với các chương trình “cải tạo” ở Liên Xô cũ và Trung Quốc. Mục đích của việc cải tạo tư tưởng (còn gọi là “giáo dục lại”) là khắc sâu các khái niệm về giai cấp: “giai cấp tư sản”“giai cấp địa chủ” (thường là chỉ đàn ông người da trắng) cần phải nhận rõ nguồn gốc tội lỗi của họ khi thuộc về “giai cấp áp bức”, còn nhóm người được cho là bị áp bức cần phải có nhận thức “đúng” về văn hóa của “giai cấp tư sản”. Họ phải trừ bỏ sự “áp bức nội tại” để có thể nhận thức rõ tình trạng bị áp bức của mình. Tương tự, giáo dục về nữ quyền cũng dạy phụ nữ phải coi những đặc tính của người phụ nữ truyền thống là do chế độ phụ quyền tạo nên.

Theo phân tích về giai cấp của chủ nghĩa Marx thì vấn đề cá nhân là chính trị: Việc nhận thức vấn đề theo lập trường của “kẻ áp bức”“sai”. Vì thế, phải thay đổi thế giới quan, hoàn toàn suy nghĩ và hành động theo lập trường chủ nghĩa Marx (giai cấp vô sản), những lời nói và hành động phủ nhận áp bức giai cấp hay đấu tranh giai cấp đều bị trừng phạt nghiêm khắc. “Đào tạo về các vấn đề nhạy cảm” là cần nhận thức đầy đủ về những “bất công xã hội” để chuyển hướng lập trường của nhóm người “bị áp bức” (phụ nữ, các dân tộc thiểu số, người đồng tính, v.v.).

Ví dụ, năm 2013 Đại học Northwestern đã yêu cầu tất cả sinh viên đều phải hoàn thành khóa học tôn trọng sự đa dạng mới được tốt nghiệp. Theo chỉ đạo của nhà trường, sau khi hoàn thành khóa học này, sinh viên sẽ có thể “phát triển khả năng tư duy phê phán” (học cách phân loại giai cấp), “nhận thức được vị trí của mình trong một hệ thống bất công” (nhận ra thành phần giai cấp của mình), và suy nghĩ lại về “quyền lực và đặc quyền của mình” (đứng trên lập trường của giai cấp “bị áp bức”). [50]

Một ví dụ điển hình khác là chương trình cải tạo tư tưởng bắt đầu vào năm 2007 ở Đại học Delaware. Chương trình này được gọi là “liệu pháp” cho thái độ và tín ngưỡng lệch lạc của sinh viên, là chương trình bắt buộc đối với 7.000 sinh viên. Họ bị cưỡng chế yêu cầu tham gia “trị liệu” ý thức tư tưởng. Mục đích công khai của nó là khiến sinh viên tiếp thụ quan điểm đã đặt ra về những vấn đề như chính trị, chủng tộc, giới tính, và bảo vệ môi trường…

Các trợ lý ký túc xá của trường này được yêu cầu khảo sát từng sinh viên theo một bảng câu hỏi, và hỏi sinh viên những câu hỏi như họ mong muốn hẹn hò với người thuộc chủng tộc nào và giới tính nào, mục đích chính là khiến sinh viên “cởi mở” trong vấn đề này. Một trợ lý ký túc xá hỏi một nữ sinh viên rằng “bạn nhận ra giới tính thật của mình vào lúc nào” (chỉ việc một cá nhận tự cho mình thuộc giới tình nào đó khác với giới tính theo đặc điểm sinh học của họ). Sinh viên này trả lời: “Đó không phải là việc của bạn” thì bị trợ lý ký túc xá báo cáo lên ban giám hiệu nhà trường. [51]

Kiểu nhồi nhét đại trà mang màu sắc chính trị này không chỉ đảo lộn tiêu chuẩn đánh giá đạo đức, mà còn phóng đại tự ngã và chủ nghĩa cá nhân: luôn coi mình là trung tâm. Những gì các sinh viên trẻ này học được là biến cảm xúc bị chính trị hóa của một nhóm người (chính trị bản sắc – identity politics) thành mục đích “cao thượng” nhằm đạt được mục tiêu cá nhân. Chỉ cần tuyên bố mình là người thuộc một “nhóm người bị hại” nào đó thì có thể tùy ý khống chế và uy hiếp người khác, hoặc đạt được mục đích cá nhân của mình; nếu quan điểm của người khác không đồng nhất với quan điểm của mình thì có thể dùng lý do “bị xúc phạm” để kháng nghị với nhà trường yêu cầu người phát ngôn đó im lặng; nếu không thích quan điểm nào đó trên báo của sinh viên phái bảo thủ, thì thậm chí có thể đốt báo của họ.

Cảm giác bị xúc phạm vốn là cảm giác chủ quan, nhưng giờ đây, ngay cả cảm giác này cũng được xem là chứng cứ khách quan. Đã đến mức cả các giáo sư đại học không cẩn thận cũng giẫm phải mìn. Mới đây, sinh viên của nhiều trường đại học đã yêu cầu giáo sư trước khi giảng dạy nội dung nào đó cũng phải đưa ra “cảnh báo kích hoạt”, vì một số tài liệu cần đọc hay chủ đề thảo luận có thể sẽ gây “phản ứng tiêu cực” cho sinh viên. Trong vài năm qua, ngay cả những tác phẩm kinh kiển như “Người lái buôn thành Venice” của Shakespeare, “Metamorphoses” (Sách về sự biến đổi) của nhà thơ La Mã cổ đại Ovid cũng bị liệt vào danh sách các tác phẩm cần cảnh báo kích hoạt. Có trường đại học còn khuyến nghị những tác phẩm có thể gây cảm xúc tiêu cực cho sinh viên thì cần phải hết sức nên tránh sử dụng. [52]

Nhiều sinh viên trưởng thành trong môi trường này rất dễ bị tổn thương, họ chỉ chăm chăm để làm sao cảm xúc của bản thân không bị xúc phạm. Ý thức nhóm (một hình thức biểu hiện khác của “ý thức giai cấp” của chủ nghĩa cộng sản) cũng được thúc đẩy mạnh ở các trường học, khiến sinh viên không còn hiểu thế nào là tư duy độc lập và trách nhiệm cá nhân nữa. Họ cũng giống như những sinh viên cấp tiến những năm 1960 mà giờ đã trở thành giảng viên của họ, đều phản đối truyền thống. Nghiêm trọng hơn là, họ sa vào các tệ nạn dâm loạn, nghiện rượu, ma túy. Ngôn từ của họ đầy những thứ tục tĩu. Nhưng ẩn sau thái độ đùa bỡn với đời của họ là những tâm hồn yếu đuối, không có khả năng chịu đựng sự đả kích, chèn ép nào, dù là nhỏ, chứ chưa nói đến việc gánh vác trách nhiệm thực thụ.

Giáo dục truyền thống rèn luyện khả năng kiềm chế bản thân, tư duy độc lập, ý thức trách nhiệm, và lòng khoan dung, thấu hiểu người khác. Chủ nghĩa cộng sản chỉ muốn cho thế hệ sau không ngừng phóng túng bản thân, trở thành công cụ để lợi dụng và thao túng nhằm thống trị thế giới.

Đăng lại có chỉnh sửa từ loạt bài của The Epoch Times
(thespecterofcommunism.com)

Tài liệu tham khảo:

[1] Scott Jaschik, “Professors and Politics: What the Research Says,” Inside Higher Ed, February 27, 2017,
https://www.insidehighered.com/news/2017/02/27/research-confirms-professors-lean-left-questions-assumptions-about-what-means.

[2] Như trên

[3] Như trên

[4] Như trên

[5] “The Close-Minded Campus? The Stifling of Ideas in American Universities,” American Enterprise Institute website, June 8, 2016,
https://www.aei.org/events/the-close-minded-campus-the-stifling-of-ideas-in-american-universities/.

[6] Fred Schwartz and David Noebel, You Can Still Trust the Communists… to Be Communists (Socialists and Progressives too) (Manitou Springs, Colo.: Christian Anti-Communism Crusade, 2010), 2–3.

[7] Zygmund Dobbs, “American Fabianism,” Keynes at Harvard: Economic Deception as a Political Credo. (Veritas Foundation, 1960), Chapter III.

[8] Robin S. Eubanks, Credentialed to Destroy: How and Why Education Became a Weapon (2013), 26.

[9] Walter Williams, More Liberty Means Less Government: Our Founders Knew This Well (Stanford: Hoover Institution Press, 1999), 126.

[10] David Macey, “Organic Intellectual,” The Penguin Dictionary of Critical Theory (London: Penguin Books, 2000), 282.

[11] Karl Marx, “Theses On Feuerbach” (Marx/Engels Selected Works, Volume One), 13–15.

[12] Bruce Bawer, The Victims’ Revolution: The Rise of Identity Studies and the Closing of the Liberal Mind (New York: Broadside Books, 2012), Chapter 1.

[13] Như trên

[14] Franz Fanon, The Wretched of the Earth, trans. Constance Farrington (New York: Grove Press, 1963), 92.

[15] Jean Paul Sartre, “Preface”, The Wretched of the Earth, by Franz Fanon, 22.

[16] Roger Kimball, Tenured Radicals: How Politics Has Corrupted Our Higher Education, revised edition (Chicago: Ivan R. Dee, 1998), 25–29.

[17] Jonathan Culler, Literary Theory: A Very Short Introduction(Oxford: Oxford University Press, 1997), 4.

[18] Fredrick Jameson, The Political Unconscious: Narrative as a Socially Symbolic Act (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1981), Chapter 1.

[19] Roger Kimball, “An Update, 1998,” Tenured Radicals: How Politics Has Corrupted Our Higher Education, 3rd Edition (Chicago: Ivan R. Dee, 2008), xviii.

[20] Karl Marx, “The German Ideology” (Progress Publishers, 1968).

[21] “Most Cited Authors of Books in the Humanities, 2007,” Times Higher Education,
https://www.uky.edu/~eushe2/Bandura/BanduraTopHumanities.pdf.

[22] Joshua Phillip, “Jordan Peterson Exposes the Postmodernist Agenda,” The Epoch Times, June 21, 2017,
https://www.theepochtimes.com/jordan-peterson-explains-how-communism-came-under-the-guise-of-identity-politics_2259668.html.

[23] Roger Kimball, “The Perversion of Foucault,” The New Criterion, March 1993,
https://www.newcriterion.com/issues/1993/3/the-perversions-of-m-foucault.

[24] David Horowitz and Jacob Laksin, One Party Classroom(New York: Crown Forum, 2009), 51.

[25] Như trên, 51–52.

[26] Bawer, The Victims’ Revolution: The Rise of Identity Studies and the Closing of the Liberal Mind, Chapter 3.

[27] Horowitz and Laksin, One Party Classroom, 3.

[28] David Horowitz, The Professors: The 101 Most Dangerous Academics in America (Washington D.C.: Regnery Publishing, Inc., 2013), 84–5.

[29] Horowitz and Laksin, One Party Classroom, 212.

[30] David Horowitz, Indoctrinate U.: The Left’s War against Academic Freedom (New York: Encounter Books, 2009), Chapter 4.

[31] Như trên

[32] Horowitz and Laksin, One Party Classroom, 1–2

[33] Quoted from
http://www.azquotes.com/author/691-Bill_Ayers.

[34] Horowitz, The Professors: The 101 Most Dangerous Academics in America, 102.

[35] “Who Won the Civil War? Tough Question,” National Public Radio, November 18, 2014,
https://www.npr.org/sections/theprotojournalist/2014/11/18/364675234/who-won-the-civil-war-tough-question.

[36] “Summary of Our Fading Heritage: Americans Fail a Basic Test on Their History and Institutions,” Intercollegiate Studies Institute Website,
https://www.americancivicliteracy.org/2008/summary_summary.html.

[37] “Study: Americans Don’t Know Much About History,” July 17, 2009,
https://www.nbclosangeles.com/news/local/Study-Americans-Dont-Know-About-Much-About-History.html.

[38] Howard Zinn, A People’s History of the United States (New York: Harper Collins, 2003).

[39] Horowitz, The Professors: The 101 Most Dangerous Academics in America, 74.

[40] Dinesh D’ Souza, Illiberal Education: The Politics of Race and Sex on Campus (New York: The Free Press, 1991), 71.

[41] Paul Samuelson, “Foreword,” in The Principles of Economics Course, eds. Phillips Saunders and William B. Walstad (New York: McGraw-Hill College, 1990).

[42] Alan D. Sokal, “Transgressing the Boundaries: Toward a Transformative Hermeneutics of Quantum Gravity,” Social Text No. 46/47 (Spring–Summer, 1996), 217–252.

[43] Alan D. Sokal, “A Physicist Experiments with Cultural Studies,” Lingua Franca (June 5, 1996). Available at
http://www.physics.nyu.edu/faculty/sokal/lingua_franca_v4/lingua_franca_v4.html.

[44] Alan D. Sokal, “Parody,” “All Things Considered,” National Public Radio, May 15, 1996,
https://www.npr.org/templates/story/story.php?storyId=1043441.

[45] Alan D. Sokal, “Revelation: A Physicist Experiments with Cultural Studies,” in Sokal Hoax: The Sham That Shook the Academy, ed. The Editors of Lingua Franca (Lincoln, NE: University of Nebraska Press, 2000), 52.

[46] Thomas Sowell, Inside American Education: The Decline, The Deception, The Dogma (New York: The Free Press, 1993), 212–213.

[47] Donald Alexander Downs, Restoring Free Speech and Liberty on Campus (Oakland, CA: Independent Institute, 2004), 51.

[48] Eugene Volokh, “UC Teaching Faculty Members Not to Criticize Race-Based Affirmative Action, Call America ‘Melting Pot,’ and More,” The Washington Post, June 16, 2015,
https://www.washingtonpost.com/news/volokh-conspiracy/wp/2015/06/16/uc-teaching-faculty-members-not-to-criticize-race-based-affirmative-action-call-america-melting-pot-and-more/?utm_term=.c9a452fdb00f.

[49] “Victory at IUPUI: Student-Employee Found Guilty of Racial Harassment for Reading a Book Now Cleared of All Charges,” Foundation for Individual Rights in Education,
https://www.thefire.org/victory-at-iupui-student-employee-found-guilty-of-racial-harassment-for-reading-a-book-now-cleared-of-all-charges/.

[50] “Colleges Become Re-Education Camps in Age of Diversity,” Investor’s Business Daily,
https://www.investors.com/politics/editorials/students-indoctrinated-in-leftist-politics/.

[51] Greg Lukianoff, “University of Delaware: Students Required to Undergo Ideological Reeducation,” Foundation for Individual Rights in Education,
https://www.thefire.org/cases/university-of-delaware-students-required-to-undergo-ideological-reeducation/.

[52] Alison Flood, “US Students Request ‘Trigger Warnings’ on Literature,” The Guardian, May 19, 2014,
https://www.theguardian.com/books/2014/may/19/us-students-request-trigger-warnings-in-literature.