Đạo trị quốc cần phải dùng chính trực, đúng đắn quản lý, dùng đức để cảm phục lòng người. Một người không coi trọng chữ tín thì về nhân cách đã bị phá sản rồi, không thể nào có chỗ đứng trong xã hội. Cũng như vậy, nếu người cầm quyền mất đi thành tín, người dân không còn tín nhiệm họ nữa, thì triều đình đó chỉ tồn tại cái danh, còn thực tế thì đã mất rồi, cách ngày sụp đổ không còn xa nữa.

Đạo trị quốc: Đánh mất lòng tin là đánh mất thiên hạ
(Tranh minh họa: Chí Thanh, Vision Times tiếng Trung)

Tử Cống hỏi về quản lý quốc gia. Khổng Tử nói: “Lương thực đầy đủ, quân đội đầy đủ, dân chúng tin theo.”

Tử Cống nói: “Bất đắc dĩ phải bỏ đi một điều thì 3 điều đó bỏ đi cái nào trước.”

Khổng Tử trả lời: “Bỏ quân đội.”

Tử Cống hỏi: “Bất đắc dĩ phải bỏ đi một điều thì 2 điều đó bỏ đi cái nào trước?”

Khổng Tử trả lời: “Bỏ lương thực. Từ xưa đến nay con người đều chết, dân không tin thì không đứng vững được.”

Có thể thấy, đối với Khổng Tử mà nói, bất kể là quân đội lớn mạnh hay kinh tế giàu có đều không sánh được với niềm tin của người dân. Người dân tín nhiệm mới là cái gốc lập quốc. Thành tín là nền tảng của cá nhân và xã hội, bất kể như thế nào cũng không được vứt bỏ.

Do đó người cầm quyền thời xưa đồng thời với việc làm cho lương thực đầy đủ, quân đội đầy đủ thì rất chú trọng thực hiện nền nhân chính, xây dựng quốc gia trên cơ sở thành tín. Nếu không, một khi đạo nghĩa sụp đổ thì dẫu quân đội cường thịnh, quốc gia giàu mạnh đến mấy thì diệt vong cũng sẽ đến. “Gió lớn không hết buổi sáng, mưa lớn không hết cả ngày”, sức mạnh cuồng bạo của trời đất đều không kéo dài, huống hồ là con người muốn dùng bạo lực để trị quốc đây?

Quản Trọng, tể tướng nổi tiếng thời Xuân Thu cho rằng: “Lễ nghĩa liêm sỉ là bốn điều duy trì quốc gia, bốn điều này không còn thì quốc gia sẽ diệt vong.” Do đó ông khuyên Tề Hoàn Công đầu tiên phải tuân theo lễ nghĩa, giành được sự tín nhiệm của chư hầu thì mới có thể xưng bá thiên hạ.

Năm 681 TCN, nước Tề thừa cơ nước Tống có nội loạn nên đã mời nước Tống cùng các nước xung quanh là Lỗ, Trần, Thái, Chu, Đàm và Toại đến Bắc Hạnh ở nước Tề để hội họp đồng minh, bàn kế sách yên định nước Tống.

Trong lần hội họp đồng minh này, tráng sỹ nước Lỗ là Tào Mạt Dụng đột nhiên dùng đoản kiếm uy hiếp Tề Hoàn Công, ép ông phải ký trả lại cho nước Lỗ phần lãnh thổ nước Lỗ bị nước Tề chiếm. Tề Hoàn Công buộc phải đồng ý. Sau đó, Tề Hoàn Công cùng với đa số các đại thần muốn hủy bỏ ký kết, đồng thời đem quân đi phục thù. Quản Trọng không đồng ý, ông nói: “Hủy bỏ cam kết là tham cái lợi nhỏ trước mắt, xuất quân là cầu được vui sướng nhất thời, sau này hậu quả sẽ mất chữ tín với chư hầu, mất chữ tín với thiên hạ. Trái lại, là một nước lớn, nếu trong tình huống bị uy hiếp phải ký hiệp ước mà vẫn tuân thủ thì tất nhiên sẽ khiến cả thiên hạ tín phục.” Tề Hoàn Công đã nghe theo ý kiến của Quản Trọng, lập tức thực hiện cam kết. Các nước chư hầu biết được việc này đều cho rằng nước Tề giữ chữ tín, rất nhiều nước chư hầu muốn quy thuận nước Tề.

Người đời sau có bình luận rằng: “Hoàn Công giữ chữ tín, nổi danh khắp thiên hạ, là bắt đầu từ hội họp đồng minh ở đất Kha.” Tề Hoàn Công sở dĩ có thể đạt được sự nghiệp “chín lần hợp chư hầu”, “một mình nâng đỡ thiên hạ” thời Xuân Thu là bắt đầu từ việc ông giữ chữ tín thực hiện cam kết.

Trong lịch sử những minh quân trị quốc bằng chữ tín còn có Đường Thái Tông. Xuất phát từ mong muốn ổn định thịnh trị lâu dài cho vương triều Đại Đường, ông chủ trương vua tôi trên dưới đồng lòng đồng đức, đối xử với nhau cởi mở, chân thành. Đường Thái Tông cho rằng, Tùy Dạng Đế nghi kỵ quần thần là nguyên nhân trọng yếu khiến triều Tùy diệt vong. Bản thân Đường Thái Tông đối xử với quần thần bằng lòng thành tín, dùng người không nghi kỵ, đã giành được lòng cảm kích và trung thành, tận tâm tận lực báo quốc.

Năm Trinh Quán thứ nhất, có người dâng thư cho Đường Thái Tông, xin thanh trừ gian thần trong triều đình. Đường Thái Tông rất coi trọng việc này, đích thân triệu kiến người dâng thư, nói trực tiếp với người đó rằng: “Những đại thần là ta bổ nhiệm đều là người hiền lương, khanh biết ai là gian thần?”

Người dâng thư nói: “Thần sống trong dân gian, không biết ai là gian thần. Nhưng thần có một diệu kế, xin bệ hạ thử xem, nhất định sẽ khiến gian thần lộ nguyên hình.”

Thái Tông hỏi ông ta là diệu kế gì, người đó trả lời rằng: “Khi bệ hạ và quần thần thảo luận quốc gia đại sự, cố ý kiên trì một ý kiến sai lầm, đồng thời thừa cơ nổi giận lôi đình. Lúc đó những người không sợ long nhan nổi giận, kiên trì chân lý, dám nói trực ngôn can gián, không sợ dao búa giết hại thì đó là trung thần. Trái lại người sợ bệ hạ uy nghiêm, chỉ lo bảo toàn tính mệnh bản thân và gia đình, thuận theo tâm ý của bệ hạ, đón ý chỉ bệ hạ thì đó là gian thần.”

Đường Thái Tông nghe xong không cho là đúng, nói với người đó rằng: “Dòng nước chảy có trong có đục, quan trọng là đầu nguồn. Quân chủ là cội nguồn thực thi chính lệnh, quan, dân giống như dòng nước chảy. Nguồn suối đục mà muốn dòng nước trong vắt thì đó là việc không thể xảy ra. Đế vương tự mình đùa cợt, thực hành kế gian giả, sao có thể khiến quan và dân chính trực, thành tín được?”

Đường Thái Tông lại nói với người hiến kế rằng: “Ta muốn khiến cho chữ tín được thực hiện khắp thiên hạ, quản lý quốc gia bằng lòng trung thành, quyết không theo oai môn tà đạo. Kế sách của khanh tuy hay, nhưng đối với ta chẳng có tý tác dụng nào, ta quyết không sử dụng.”

Người đó nghe rồi mặt mũi hổ thẹn vội vàng lui đi.

Nếu người cầm quyền lấy thành tín làm gốc trị quốc, thi hành ân đức rộng rãi, ắt sẽ được người dân kính yêu, thiên hạ thái bình. Ngược lại, triều đại ắt sẽ diệt vong.

Theo “Văn sử mạn đàm: Dân không tin thì không đứng vững được”
Đăng lại từ Minghui.org

Đường Phong

Xem thêm:

Mời xem video: