Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi (Diệt Hỷ) với chiều dài hơn 600 năm đã ảnh hưởng to lớn đến văn hóa tinh thần của người Việt, đồng thời còn sản sinh ra các vị thiền sư ảnh hưởng lớn đến lịch sử và vận mệnh của đất nước.

Vài truyền kỳ về võ thuật của thiền sư phái Diệt Hỷ
(Tranh minh họa: Họa sĩ Sỹ Hòa, Báo Bình Phước Online)

Ảnh hưởng tới quyết sách của các vị vua trong lịch sử

Tì Ni Đa Lưu Chi (nghĩa là Diệt Hỷ năm sinh không rõ, mất năm 594) là thiền sư người Nam Thiên Trúc (Ấn Độ). Thuở nhỏ đã có ý chí khác thường, đi khắp nơi cầu Pháp. Năm 574, ông sang Trung Hoa, gặp Tam tổ Tăng Xán tại núi Tư Không và đem lòng kính ngưỡng. Tam Tổ khuyên ông nên đến phương Nam truyền Pháp.

Tì Ni Đa Lưu Chi đến Vạn Xuân khoảng thời gian những năm 580, ở tại chùa Pháp Vân (chùa Dâu) tỉnh Hà Bắc. Tại đây Tì Ni Đa Lưu Chi phổ truyền Phật Pháp thuộc Thiền Tông, giáo hóa muôn dân, khai sinh ra dòng thiền Tì Ni Đa Lưu Chi (tức Diệt Hỷ) và trường phái võ thuật của mình.

Năm 594, thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi mất, Pháp Hiền kế tục chuyển đến Từ Sơn, Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay). Lịch sử nhà Phật chép rằng:

Sau khi Tì-ni-đa-lưu-chi tịch, Pháp Hiền vào Từ Sơn tập định. Thân hình ngài như cây khô, vật ngã đều quên, giống chim bay đến thân mật, loài thú rừng quấn quít… Người bấy giờ mộ tiếng ngài đến học đông không kể xiết. Ngài bèn dựng chùa dạy học, cư tăng lúc nào cũng hơn 300 người. Thiền tông phương Nam bấy giờ thịnh nhất.

Một trong những đệ tử của Pháp Hiền là Trần Tự Viễn đã học được tinh hoa võ thuật, truyền lại cho dân chúng nhằm chống lại ách đô hộ của nhà Tùy – Đường. Hậu duệ nhà Trần sau này gọi môn võ của dòng họ mình là Đông A (chiết tự từ chữ Trần). Các binh tướng nhà Trần dùng chính dòng võ này để 3 lần đánh bại sự xâm lược của quân Mông Thát. (Xem bài: Điều gì giúp nhà Trần ba lần đánh bại đội quân hiếu chiến và hùng mạnh nhất thế giới?)

Trải qua 19 đời (580 – 1216), dòng thiền phái Diệt Hỷ tạo ra nhiều thiền sư xuất chúng, ảnh hưởng rất lớn đến vận mệnh của đất nước qua các thời kỳ. Nhà Đinh, tiền Lê, Lý đều dựa vào các thiền sư nhắm giáo hóa muôn dân, giúp nâng cao đạo đức cũng như văn minh tinh thần xã hội.

Các đời vua mỗi khi ra các quyết định chính sách lớn đều hỏi ý kiến thiền sư. Các cuộc chiến quan trọng bảo vệ Giang Sơn trước sự xâm lăng của nhà Tống cũng có sự đóng góp của các vị thiền sư này.

Năm 981, tướng chỉ huy quân Tống là Hầu Nhân Bảo đưa quân sang đánh, vua Lê Đại Hành triệu thiền sư Vạn Hạnh đến hỏi nếu đánh thì thắng hay bại? Thiền sư Vạn Hạnh trả lời rằng, quân Tống sẽ bại và rút lui. Quả nhiên quân Tống tiến vào bị quân của vua Lê đánh bại, tướng chỉ huy quân Tống là Hầu Nhân Bảo tử trận, nhà vua khen thưởng các vị thiền sư, nhưng tất cả đều không nhận. (Xem thêm: Vua Lê Đại Hành – P3: Thiên ngoại hữu thiên)

Vua Lê Đại Hành đưa quân tiến đánh Chiêm Thành cứu sứ giả, đến phút cuối còn do dự, lại mời thiền sư Vạn Hạn đến hỏi, thiền sư Vạn Hạnh trả lời rằng đây là cơ hội đừng để vuột mất. Vua Lê tiến binh sang Chiêm Thành, vua Chiêm chống lại, chiến trận diễn ra ở vùng Bình Trị Thiên ngày nay, vua Chiêm bị chém ngay giữa trận tiền, quân Chiêm thua to, quân Việt đánh chiếm được kinh thành. Từ đó Chiêm Thành quy thuận Đại Cồ Việt.

Thiền sư Vạn Hạnh cùng dòng thiền Diệt Hỷ cũng có ảnh hưởng lớn và quyết định đến việc Lý Công Uẩn lên ngôi, cũng như việc chuyển kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La, rồi đổi tên Đại La thành Thăng Long.

Các thiền sư tiêu biểu có thể kể đến như Pháp Hiền, Định Không, Đinh La Qúy, Vạn Hạnh, Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu, Thiện Ông, Ma Ha, Minh Không.

Bảo hộ phong thủy đất nước

Vào thời nhà Đường, Cao Biền lĩnh chỉ vua Đường Ý Tông đi trấn yểm An Nam. Biết đất ở làng Cổ Pháp có khí tượng đế vương nên ông ta cắt đứt long mạch nơi đây bằng cách đào đứt con sồng Điềm (các nghiên cứu cho rằng có thể là sống Đuống ngày nay) và 19 điểm ở ao Phù Chẩn (thuộc làng Phù Chẩn, thị trấn Từ Sơn, Bắc Ninh). Tuy nhiên âm mưu này đã bị các thiền sư thuộc phái Diệt Hỷ phát hiện và hóa giải. Thậm chí trước khi Cao Biền lĩnh chỉ trấn yểm An Nam, các thiền sư thuộc phái này đã đoán trước sự việc và đã có chuẩn bị cả rồi.

Chuyện thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền
Cao Biền. (Tranh qua lishi.com, Public Domain)

Năm 808, trước khi Cao Biền trấn yểm An Nam khoảng 60 năm, khi sắp viên tịch, thiền sư Định Không cho gọi người kế tục mình là Thông Thiện đến dặn dò rằng rằng, sau này người kế tục Thông Thiện là người mang họ Đinh, ông nói:

Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta đã mãn.

Sau này sư Thông Thiện gặp một đệ tử rất thông minh là Đinh La Quý, đoán biết đây là người kế tục mình nên đã truyền thụ hết các sở học cho học trò. Theo dân gian thì ngài La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai.

Chính La Quý là người đã nối lại long mạch cho làng Cổ Pháp. Năm 936 (thời Dương Đình Nghệ), biết mình sắp mất, La Quý gọi đệ tử chân truyền của mình là Thiền Ông đến tiết lộ và dặn dò rằng:

Ngày trước, Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp của ta có khí tượng đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn.

Nay ta đã chủ trì lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa. Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo.

Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật.

Thiền sư La Quý cẩn thận dặn dò Thiền Ông rằng:

Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy.

Vậy việc nối lại khí tượng đế vương làng Cổ Pháp có tác dụng không? Vị đế vương làng Cổ Pháp là ai? Trong sách “Thiền Uyển tập anh” có ghi chép rằng, trước khi mất ngài La Quý có làm một bài thơ tiên đoán như sau:

Đại sơn long đầu khỉ
Cù vĩ ẩn châu minh
Thập bát tử định thiền
Miên thọ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiên nhật xuất thanh

Dịch là:

Đại sơn đầu rồng ngửng
Đuôi cù ẩn Châu minh
Thập bát tử định thành
Bông gạo hiện long hình
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên

Ở câu thứ 3 “thập bát tử” tức chữ thập (+), chữ bát (八), chữ tử (子) tạo thành chữ Lý (李) ý chỉ vị vua sau này mang họ Lý. Hai câu sau nói ra vị vua này lên ngôi vào tháng chuột (tháng 11) năm gà (tức năm dậu 1009). Vị vua mang họ Lý lên ngôi vua vào tháng 11 năm 1009 chính là vua Lý Công Uẩn.

Năm 1009, trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi, một tia sét lớn đánh vào cây bông gạo khiến cây bị gãy cành, nhưng cây không chết. Chính vì thế mà làng Diên Uẩn, Cổ Pháp còn gọi là làng Dương Lôi hay Đình Sấm. Có giả thiết cho rằng sự việc này cũng là do thầy phong thủy Trung Quốc làm.

Đúng như lời đoán trước khi mất của thiền sư La Quý, vua Lý Công Uẩn là người làng Cổ Pháp. Khi ông lên ngôi đã duy hộ Phật Pháp, dùng Phật Pháp để giáo hóa muôn dân, khiến đạo đức thăng hoa, xã hội ổn định. Kể từ đó, Đại Việt hùng mạnh, mở ra thời kỳ thịnh trị.

Quốc sư – Thiền sư

Trong các thiền sư của phái Diệt Hỷ không thể không nhắc đến Lý Quốc Sư tức thiền sư Nguyễn Minh Không, ông là người đứng đầu Phật giáo vào triều đại nhà Lý. Ông tu luyện ở chùa Thiên Trúc, núi Phật Tích (chùa Thầy, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội ngày nay).

Diệt Hỷ - Dòng thiền ảnh hưởng to lớn đến lịch sử dân tộc
Tượng Lý Quốc Sư tại đền thánh Nguyễn ở quần thể chùa Bái Đính, Ninh Bình. (Ảnh: Kien1980v, Wikipedia, Public Domain)

Sau này Lý Quốc Sư trở về quê nhà ở làng Đàm Xá, phủ Tràng An (nay là làng Điền Xá, xã Gia Thắng, Gia Viễn, Ninh Bình) dựng rất nhiều chùa. Lịch sử ghi nhận cả cuộc đời ông đã dựng đến 500 chùa ở khắp nơi, trong đó có nhiều chùa nổi tiếng còn đến nay như chùa Bái Đính, chùa Cổ Lễ, chùa Non Nước, chùa Địch Lộng, chùa Quỳnh Lâm, chùa Am Tiên, chùa Trông, chùa Kim Liên, chùa Hàm Long… Lý Quốc Sư được xem là người dựng nhiều chùa chiền nhất Việt Nam.

Năm 1136, vua Lý Thần Tông mắc bệnh lạ, các danh y đều được mời đến chữa nhưng không một ai có thể chữa được. Lúc này trong dân gian xuất hiện bài đồng dao được trẻ con khắp nơi hát theo.

Bắc Nam có Tây Đông
Đáy bể ẩn có rồng
Vua mắc bệnh khó chữa
Hãy đón Nguyễn Minh Không.

Vua nghe tin liền cho người đến tìm thiền sư Minh Không nhờ chữa bệnh cho mình. Khi thiền sư đến, nhiều người đang ở đó cầu đảo làm phép với hy vọng chữa được bệnh cho vua. Thấy Minh Không ăn mặc mộc mạc giản dị, họ chẳng ai để ý đến ông, chỉ lo làm trò phù phép, mà cũng chẳng đáp lễ khi ông chào hỏi.

Thiền sư Minh Không liền mang cái đinh dài 5 tấc đóng vào cột rồi nói: “Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì trước đáng được tôn trọng, sau chữa được bệnh cho vua”. Thiền sư Minh Không nói mấy lần liền nhưng không có ai dám phản ứng gì. Rồi ông dùng hai ngón tay kẹp lại nhẹ nhàng rút cây đinh ra khiến người nào cũng tròn mắt kính phục.

Rồi ông nói người lấy một cái vạc lớn nấu nước sôi, rồi thò tay vào vạc nước sôi lấy ra đủ 100 cây kim để châm cứu cho vua. Bệnh của vua liền bớt ngay, sau đó thì khỏi. Cảm phục nhà vua phong cho ông là Lý Quốc Sư.

Diệt Hỷ - Dòng thiền ảnh hưởng to lớn đến lịch sử dân tộc
Đình thờ ông tổ đúc đồng Nguyễn Minh Không ở Ngũ Xá – Hà Nội. (Ảnh: Kien1980v, Wikipedia, Public Domain)

Là một thiền sư tinh thông Phật Pháp, lại giỏi cả thuật pháp, ông không chỉ chữa bệnh cho nhà vua mà còn có nhiều bài thuộc chữa bệnh cho dân chúng.

Được suy tôn là ông tổ của nghề đúc đồng, Lý Quốc Sư đã làm nhiều tượng Phật, đúc đỉnh đồng trên tháp Báo Thiên, góp phần tạo nên An Nam tứ đại khí, là những báu vật nổi tiếng của nước Đại Việt thời Lý – Trần.

Lý Quốc Sư đã phổ truyền Phật Pháp để xây dựng nền tảng tín ngưỡng, giáo hóa muôn dân, giúp văn hóa đạo đức thời nhà Lý lên đến cực thịnh. Bên cạnh đó, một số ý kiến cho rằng ông cũng từng là một trong “tứ bất tử” của văn hóa người Việt thời xưa. Theo Án sách Tiên phả dịch lục “tứ bất tử” bấy giờ là Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không (1065 – 1141). Sau rồi theo chú thích của Nguyễn Tông Quai trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì “tứ bất tử” là Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Từ Đạo Hạnh (1072-1116). Cuối cùng tới tận thế kỷ 15 thì mới có “tứ bất tử” là Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Công Chúa.

Ngày này nhiều địa phương có đường Lý Quốc Sư để tưởng nhớ đến những đóng góp của ông

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video: