“Khí vận sinh động” được một số họa gia thời xưa coi là nguyên tắc cao nhất trong sáng tác hội họa Trung Hoa truyền thống. Một tác phẩm hội họa khuyết thiếu “khí vận sinh động” thì không thể được coi là đẹp.

"Khí vận sinh động": Cái thần trong hội họa Trung Hoa
(Tranh: Thời Thanh, Public Domain)

Tạ Hách là họa gia thời Nam Tề. Ông đặc biệt giỏi về vẽ tranh chân dung, được coi là họa sĩ vẽ tranh chân dung đời đầu của Trung Hoa. Ông có khả năng ghi nhớ rất mạnh, người mà ông đã từng gặp qua là sẽ không thể quên, thậm chí ông có thể vẽ lại được người đó. Chỉ có rất ít các bức tranh của ông còn được lưu lại đến đời sau. Tuy nhiên, “Lục pháp luận” (sáu phép đánh giá tranh) của Tạ Hách được chép trong “Cổ họa phẩm lục” thì được truyền lại nguyên vẹn và có ảnh hưởng rất lớn đến hội họa Trung Hoa.

“Cổ họa phẩm lục” là tác phẩm nghiên cứu hội họa cổ nhất của Trung Hoa. Trong cuốn sách trình bày “Lục pháp” được các họa sĩ, nhà phê bình và người giám định, thưởng thức tranh sau này tuân theo. Sáu nguyên tắc này bao gồm: “khí vận sinh động”, “cốt pháp dụng bút”, “ứng vật tượng hình”, “tùy loại phú thái”, “kinh doanh vị tr픓truyền di mô tả”.

Trong sáu phương pháp thì tiêu chuẩn quan trọng nhất chính là “khí vận sinh động”. Các tác giả của “Giới Tử viên họa truyện” từng nói: “Từ phép thứ hai trở đi có thể học hỏi mà thành, nhưng riêng phép thứ nhất, chỉ có thể đạt được do bẩm sinh”. Nói như vậy có nghĩa là khí vận sinh động là một tư chất trời phú, tức cái mà chúng ta gọi là thiên tài.

Có thể hiểu ý nghĩa của phép thứ nhất một cách đơn giản rằng: sự vận động của khí sản sinh ra sức sống. Khí trong tư tưởng Trung Hoa cổ đại là bản thể của vũ trụ, nó vừa là vật chất, vừa là tinh thần, nó là tương đối vì sự vận động của nó là vĩnh cửu. Trong hội họa, khí vận là cái thần của bức tranh, là giá trị của Đạo ẩn tàng trong bức tranh.

Tranh Trung Hoa chú trọng đến ý tứ, những chi tiết đã được định liệu từ trước, sự liên tục không đứt quãng và tính ăn khớp, mạch lạc. “Khí vận sinh động” không chỉ nói đến thần khí, sự mạch lạc cuốn hút bên trong của bức tranh mà nó còn yêu cầu phải sinh động, giao cấp cho bức tranh một sinh mệnh, truyền cho bức tranh một sức sống, khiến bức tranh đạt được cảnh giới “dùng hình viết thần”, hình thần đầy đủ. Nhìn vào bức tranh người ta thấy được thần khí, ý vị và sự sống của nó. Từ quan điểm này mà xét, có thể thấy “khí vận sinh động” là linh hồn của “Lục pháp”.

Trong các triều đại lịch sử, hầu hết các kiệt tác đều do các học giả cao thượng hoặc các ẩn sỹ sống gần gũi, hòa mình với thiên nhiên tạo ra. Bởi họ sống cuộc đời gần với Đạo, gửi gắm tâm đắc trong hội hoạ, đắm mình vào nó, nên tư duy cao cả và tinh thần cao quý này bộc lộ trong các bức tranh. “Khí vận sinh động” trong tranh cao đẹp là bởi chí khí của họạ sỹ cao đẹp, và “khí vận sinh động” có cao thì bức tranh mới tràn trề sức sống và khơi dậy được tâm linh người xem.

Mặc dù “khí vận sinh động” là tiêu chuẩn quan trọng nhất nhưng nó không thể tách rời năm phương pháp khác trong “Lục pháp”. Nó cùng với năm pháp này tạo thành một chỉnh thể.

“Cốt pháp dụng bút” chính là chỉ cách thức sử dụng kỹ thuật bút để vẽ ra hình dạng và kết cấu của vật thể. Nếu nói khí vận sinh động là “thần” thì cốt pháp dụng bút chính là “hình”. “Hình” là dựa trên kỹ thuật biểu đạt của bút, mục đích là để biểu hiện “thần”, cũng chính là “lấy hình tả thần” (vẽ ngoại hình mà thể hiện được thần thái) do đại danh họa Cố Khải Chi thời Tấn nói đến.

“Ứng vật tượng hình” chính là ứng với hình tướng của vật mà phác ra hình sao cho đúng.

“Tùy loại phú thái” chính là căn cứ đối tượng, thời gian, địa điểm mà sử dụng mà sắc khác nhau sao cho phù hợp.

“Kinh doanh vị trí” chính là chỉ sắp xếp bố cục cho hợp lý. Tranh Trung Hoa xưa coi trọng kết cấu bố cục, chú ý đến các mối quan hệ như chủ và khách, hư và thực, phức tạp và đơn giản, thưa và dày, ẩn và lộ…

“Truyền di mô tả” là sao chép, vẽ phỏng theo người xưa, tức là chọn thầy mà học, nhằm đạt đến một kỹ năng hoàn chỉnh. Vẽ những thứ có thật từ cuộc sống và vẽ sao chép các tác phẩm của cổ nhân là một phương pháp học tập quan trọng, đồng thời cũng là một phương pháp kế thừa truyền thống.

“Khí vận sinh động” không tách rời với năm phương pháp này, đồng thời năm phương pháp này càng không thể tách rời “Khí vận sinh động”. Nếu không, bức tranh sẽ trở thành một bức vẽ với kỹ thuật thuần túy mà không có linh hồn. Thậm chí, các họa gia cho rằng bức vẽ kỹ nhất cũng chỉ là thứ từa tựa như tranh mà không được gọi là tranh.

Mấu chốt của việc đánh giá một bức tranh là thật hay giả là ở chỗ xem thần và khí của bức tranh. Khi người ta đánh giá một bức tranh là giả thì tức là bức tranh ấy không có thần khí đáng có. “Thần” “khí” trong bức tranh giả không ăn khớp với nhau, hơn nữa còn chứa đựng những điều không tốt. Trái lại, năng lượng mà một bức tranh thật mang theo là chính diện, “thần”“khí” ăn khớp với nhau, cũng chính là “khí vận sinh động”.

Theo Vision Times tiếng Trung
An Hòa biên tập

Xem thêm:

Mời xem video: