Nhóm Cánh buồm, dưới sự chủ trì của nhà giáo Phạm Toàn, tức nhà văn Châu Diên, từng biên soạn xong bộ sách lớp một, từ sự kế thừa các kết quả tích cực thực nghiệm Công nghệ giáo dục, do tiến sỹ Hồ Ngọc Đại dốc lòng thiết kế và tổ chức chu đáo hàng chục năm qua. Nên rất tự tin là “đúng hơn, đẹp hơn, hấp dẫn hơn, dễ thực hiện hơn”. Toàn bộ bản thảo được chuyển tới nhà xuất bản Tri thức. Nhân dịp đó, nhà xuất bản bèn mời nhóm Cánh buồm dạy mẫu một số tiết theo đúng sách giáo khoa do chính họ dày công biên soạn để giới thiệu trên truyền hình, trên mạng, như một quảng cáo thực trực quan, thực thuyết phục. Nhưng thực tế học đường lại không chấp nhận vì nó chỉ nặng lí thuyết cách thức dạy và học mà thiếu vắng những nguyên lí cơ bản triết lí giáo dục.

Thế là mơ một Quốc văn giáo khoa thư ngày xưa. Đương nhiên, không ai dại gì lại vác chúng – gồm những tập cho lớp đồng ấu – enfantin (lớp một), dự bị – préparatoire (lớp hai), sơ đẳng – élémentaire (lớp ba), ra làm làm sách giáo khoa cho học trò thời đại hôm nay phổ biến mạng toàn cầu. Nó xuất bản năm 1935, với nội dung tương thích thời nước ta còn tăm tối thuộc Pháp. Thực tế, nó phải xếp sau sách học tiếng Pháp ở trường tiểu học dành cho trẻ con thuộc địa: Le livre unique de Francais.

Mơ ở đây là mơ một chừng mực biên soạn của các thày giáo giỏi lại hết lòng vì học trò thân thương của mình hồi đó: Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận. Nhà giáo gạo cội Phạm Toàn hôm nay cho rằng “… sách Ta này cũng dùng văn chương để chuyên chở ngữ pháp, cũng dùng chủ điểm để cung cấp từ ngữ… và qua phần văn chương để kết hợp đem đến cho học sinh các kiến thức lịch sử, đạo đức, địa lý, khoa học thường thức hoặc văn hóa.”

Ở thời nửa đầu thế kỉ XX đó, một sách giáo khoa tiếng Việt như thế quả là quá tuyệt vời.

Mơ một sách "Quốc văn giáo khoa thư"
(Ảnh từ NXB Kim Đồng)

Về phương pháp học tập, nhà giáo Phạm Toàn trích nguyên xi bài khóa số 51: “Thằng Bút… đọc cả bài ngụ ngôn – văn vần hai ba lượt, rất có ý và nhận nghĩa cho thật hiểu. Nó đọc câu đầu, rồi không nhìn vào sách đọc lại không sai chút nào. Nó học sang câu thứ hai. Thuộc rồi, đọc lại cả với đầu. Rồi nó học luôn như thế cho đến câu cuối cùng. Sau Bút đọc lại cả bài năm, bảy lần. Lúc bấy giờ, gấp sách lại, đọc làu làu…” Nhưng cách học thuộc lòng như rứa lại bị các nhà sư phạm hiện đại ngày nay lên án là “tầm thường và sai lầm tai hại về khoa học”!?

Trong khi đó, nhà giáo – ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo lại một mực coi học thuộc lòng ca dao, tục ngữ là cách thích hợp nhất với trẻ nhỏ. Không học thuộc lòng, trẻ làm sao học nói được đây. Với lại, cách học ngoại ngữ được coi là tiên tiến và hiệu quả hiện nay là học thuộc lòng những câu mẫu, chưa cần biết văn phạm, cú pháp là gì. Hơn một lần, Cao Xuân Hạo chỉ ra rắng: “Trong mấy năm đầu tiểu học, nhiệm vụ của nhà trường là dạy cho bọc sinh biết đọc và biết viết. Thích hợp nhất với mấy năm đầu học chữ chính là kho tàng ca dao, tục ngữ, chứa đựng trăm nghìn những áng văn đẹp nhất, hay nhất, bổ ích nhất… trẻ cần thuộc lòng để thấm nhuần những mẫu mực về hành văn chứa đựng linh hồn tiếng Việt dưới hình thức giản dị và súc tích nhất.”

Có học thuộc lòng các bài ca dao, tục ngữ mà trẻ học chữ không phải thông qua “đánh vần” rối rắm a bờ cờ hôm nay. Đánh vần là lối học lạc hậu, thế giới đã bỏ từ lâu. Đố có ai học tiếng Pháp, tiếng Anh lại bắt đầu từ đánh vần đấy. Trong tiếng Pháp, o, oh, au, eau, aux, eaux, haut… đọc ráo là ô tất. Vô địch chung kết Đường lên đỉnh ô-lim-pia 2010 bị nghi vấn. Đáp án thợ sửa ông nước plumber là đúng, nhưng đọc “theo kiểu đánh vần tiếng ta” thành “plâm-bơ” là sai, vi b ở đây câm, đọc đúng là “plâmơ”

Vậy mà các sách giáo khoa tiếng Việt lại cứ như đoạn tuyệt ca dao, tục ngữ không bằng. Một là ca dao, tục ngữ không cho phép máy móc áp ngữ pháp châu Âu để phân tich văn phạm đâu là chủ ngữ đâu là vị ngũ… Nhất là lại không thấy các thời “đã, đang, sẽ” như các ngôn ngữ hệ Ấn – Âu. Cũng như nhiều tiếng trong vùng Đông – Nam Á, tiếng ta là một ngôn ngữ không có thời, a tenseless language.

Cái hay, cái đẹp của ca dao tục ngữ luôn được tự hào là hàm ý, hàm ngôn. Không chỉ không phân tích theo các tiêu chuẩn ngôn ngữ Ấn – Âu được, mà còn rất khó diễn nghĩa. Ví dụ, “Ăn vóc học hay” không phải ai cũng hiểu ngay được là ăn cho có sức vóc, học để hiểu để biết, để hay “Rắn mai tại lỗ, rắn hổ về nhà” là bị rắn mai cắn, chết ngay tại chỗ, còn bị rắn hổ mổ, còn lết được về nhà…

Chính nhà giáo Phạm Toàn cũng phải đặt câu hỏi thắc mắc là vì sao Quốc văn giáo khoa thư lại thành công đến thế: “Nhiều người là học trò thởi Quốc văn giáo khoa thư chỉ được học tiếng Việt trình độ cỡ thằng Bút. Lên tiếp bậc trung học, họ học toàn tiếng nước mẹ (tiếng Pháp)… Vậy mà sao lại có nhiều người sau này giỏi tiếng Việt. “

Rõ ràng là từ cái gốc cơ bản học Quốc văn giáo khoa thư mà yêu tiếng Việt rồi tự trau dồi mà thành… Vậy ra điều cốt yếu của sách giáo khoa là làm sao cho học trò hứng thú học, học chăm, học giỏi để cất cho mình lâu đài kiến thức, văn hóa, đạo đức, đặng lớn lên làm người văn minh, bác ái.

Lê Lành

Đăng lại từ tạp chí Chim Việt Cành Nam (Chimviet.free.fr)