Nhữ Đình Hiền là bậc danh sĩ thời Lê Trung Hưng, nổi tiếng là một trong “Tràng An tứ hổ”, làm quan trải qua 5 triều Vua, tiếng tăm vang dội, phá án kỳ tài. Dân làng quê ông đều biết ơn, tôn ông là “Thánh sư” nghề làm lược.

Nhữ Đình Hiền: Vị quan xử án kỳ tài - Thánh sư nghề làm lược
(Tranh minh họa: Họa sĩ Sỹ Hòa, Báo Bình Phước Online)

Xuất thân

Theo “Lịch triều hiến chương loại chí” thì dòng họ Nhữ nổi tiếng về khoa bảng, bắt đầu từ thủy tổ là tiến sĩ Nhữ Văn Lan làm Thượng thư thời vua Lê Thánh Tông. Nhữ Văn Lan chính là ông ngoại Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, từng có công dạy dỗ vị danh nhân này.

Một người con trai của ông Lan là Nhữ Huyền Minh làm Tri huyện Lục Ngạn rồi di cư về xã Lôi Dương, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng (sau đổi thành phủ Bình Giang, trấn Hải Dương). Đến đời thứ 7 có ông Nhữ Tiến Dụng chuyển về làng Hoạch Trạch, dòng họ Nhữ nơi đây, nam thì nhiều đời phát khoa bảng, phụ nữ thì giỏi giang.

Nhữ Tiến Dụng có người con trai thứ 3 là Nhữ Đình Hiền sinh năm 1659 ở làng Hoạch Trạch, huyện Đường An, (nay thuộc xã Thái Học, Bình Giang, Hải Dương).

Khi mới 17 tuổi Nhữ Đình Hiền đã vượt qua tứ trường kỳ thi Hương. Đến khoa thi năm 1680 thì ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân lúc 21 tuổi, từ đó bước ra làm quan cho Triều đình.

Trải qua nhiều chức vụ khác nhau, Nhữ Đình Hiền làm đến Thượng thư hình Bộ, được phong tước Hầu.

Phá án kỳ tài, chính sự lỗi lạc

Nhữ Dình Hiền nổi tiếng làm quan tận tụy, xử án đúng người đúng tội. Với những vụ án phức tạp tồn đọng lâu năm, ông xử lý theo cách riêng của mình, nhiều câu truyện về ông được lưu truyền và ghi chép lại, nổi tiếng có truyện không có dấu vết nhưng ông vẫn tìm ra thủ phạm. Chuyện này được ghi chép như sau.

Gia đình nọ có cô em gái đi thăm chị mình bị ốm. Đường đi khá xa, cô em gái đi nhiều ngày không thấy trở về. Ban đầu người chồng nghĩ rằng vợ mình ở lại chăm sóc chị, nhưng mãi vẫn không có tin gì. Nghi vợ mình bị chồng của chị gái sát hại, người chồng liền làm đơn kiện gửi lên quan.

Quan cho bắt người chồng tống giam, thế nhưng dù xử thế nào nghi phạm vẫn kêu oan, mà tang chứng vật chứng không đủ để luận tội. Vụ án phải xử nhiều lần, pháp quan cũng thay đổi nhiều người, qua 6, 7 năm rồi mà vẫn không sáng tỏ.

Chúa Trịnh liền lệnh cho Thượng thư Bộ Hình Nhữ Đình Hiền phải trực tiếp điều tra vụ án này. Nhữ Đình Hiền rà soát một loạt hồ sơ vụ án, thấy nghi phạm đều tập trung vào chồng của người chị gái, mà nghi phạm này chỉ một mực kêu oan. Cũng không còn manh mối dấu vết nào để phá án.

Nhữ Đình Hiền liền xem thực địa con đường mà người em gái đã đi, thấy trên đường có một cánh đồng vắng, có một ngôi chùa ở đấy. Ông nghi ngờ người em gái bị hại tại cánh đồng này. Nhưng làm sao để biết được khi vụ án đã qua lâu rồi, không còn lại dấu vết gì cả.

Nhữ Đình Hiền cùng tùy tùng của mình đóng giả làm quan viên đến lễ chùa rồi xin được ngủ lại qua đêm. Sáng hôm qua ông nhờ Trụ trì tập hợp hết mọi người rồi nói rằng hôm qua nằm mơ thấy có cô gái đến kêu oan, bị cưỡng hiếp mà chết, rồi nhờ ông giúp xử án. Ông yêu cầu mọi người phải thành thật khai báo.

Lúc này có một người vì sợ hãi đã đứng ra nhận tội, dẫn đến nơi chôn người phụ nữ, vụ án được làm sáng tỏ.

Sách “Hải Dương phong vật khúc” có đoạn ca ngợi tài phá án của ông qua vụ án này như sau:

Họ Nhữ ở xã Hoạch Trạch, ông cha con cháu 5 đời đỗ đạt. Nhữ Đình Hiền có biệt tài về chính sự. Lúc ấy có một nghi án về một thiếu phụ mất tích [bị chôn dưới chân tháp].

Ông căn cứ bản đồ địa phương, thấy có ngôi chùa ở giữa cánh đồng, cây cối rậm rạp, rồi đoán định ở đó, bèn thác lời nằm mộng thấy có người đến kêu oan mà các sư phải lập tức thú nhận ngay.

Sách cũng có lời ca ngợi rằng:

Nhà họ Nhữ quan trâm kế thế
Có tiếng hay chính sự dậy dàng
Tụng tình soi sáng bằng gương
Hồn oan dưới tháp suối vàng cũng ơn.

Người thời đó có câu rằng: “Văn chương Lê Anh Tuấn, chính sự Nhữ Đình Hiền”.

“Thánh sư” nghề làm lược

Trong thời gian làm quan, Nhữ Đình Hiền từng đi sứ sang Trung Quốc, cuốn “Đại Việt sử ký tục biên” có chép lại rằng:

Mùa xuân, tháng Giêng, sai Chánh sứ Nguyễn Đăng Đạo, Nguyễn Thế Bá; Phó sứ Đặng Đình Tướng, Nhữ Đình Hiền sang Thanh tuế cống. Đến mùa hạ tháng sáu năm Mậu Dần (1698), đoàn sứ thần Đại Việt mới trở về nước.

Trong “Hoạch Trạch Nhữ tập phả ký” có ghi lại rằng trong thời gian đi sứ, Nhữ Đình Hiền thấy người dân ở địa phương có nghề làm lược tre rất hay, lại thấy ở trong nước dùng lược gỗ hoặc sừng, răng thưa nên không tốt bằng loại lược tre này. Thế là ông học cách làm loại lược tre này.

Ông học nghề làm lược tre rồi dạy lại cho vợ mình là bà Lý Thị Hiệu. Hai vợ chồng truyền lại nghề làm lược cho dân làng quê mình ở làng Vạc (tức làng Hoạch Trạch), lập thành phường nghề gọi là “Diên lộc”.

nghe luoc
Lược làng Vạc. (Ảnh: Báo Giáo dục & Thời đại)

Từ đó nghề là lược tre (còn gọi là lược bí) phát triển mạnh, làng Vạc hầu như nhà nào cũng có người biết làm lược và nhà nào cũng chỉ dùng lược bí.

Khi nghỉ hưu, Nhữ Đình Hiền được Vua ban cho 16 mẫu ruộng lộc điền, ông chỉ lấy 4 mẫu làm hương hỏa, còn lại cho phường nghề Diên Lộc làm hoa lợi phát triển nghề làm lược. Từ đó nghề làm lược từ làng Vạc lan ra các nơi khác, trong ba mươi sáu phố phường tại Thăng Long có phường nghề hàng Lược xuất phát từ làng Vạc.

Khi Nhữ Đình Hiền mất, dân làm lập đền thờ, xem vợ chông ông là Thánh sư nghề làm lược, trong bài văn tế có đoạn: “Cung duy tiên thánh, tiên sư, thùy dụ lê dân, công đăng nhật nguyệt, đức hợp càn khôn, bắc sứ dĩ đoan, hưng thành nghệ thủ…”.

Cuốn “Lịch triều hiến chương loại chí” có ghi chép rằng:

Đầu đời Cảnh Hưng, triều đình tặng hàm Thiếu phó, tước Thọ quận công. Bài chế đại lược rằng:

Lên chức Ngự sử, tham dự chốn đô đài, trong sạch như sương
Lên chức Thượng thư mà làm Tể tướng, thường bày mưu lớn
Công lao trong sử sách, ghi chép rõ ràng
Tri ngộ từ triều trước, đến già vẫn không kém
Địa vị có phần chưa xứng với tài, những mong mơ Phó Duyệt nêm canh
Lộc và phúc để về sau, sẽ được hòe họ Vương tươi tốt
Chung đúc vào con, làm lên ngôi tướng.

Làng Vạc ngày nay vẫn kế thừa nghề làm lược truyền thống. Nhưng lớp trẻ hầu hết đều ra thành phố hoặc làm cho các khu công nghiệp xung quanh. Chỉ còn lại một phần ba số hộ gia đình người trung và cao tuổi vẫn gắn bó với nghề làm lược truyền thống của làng.

Trần Hưng tổng hợp

Xem thêm:

Mời nghe radio: