Văn hóa phương Đông cổ xưa được coi là văn hóa Thần truyền, là văn hóa bắt nguồn từ Thiên thượng, lấy tín ngưỡng làm căn bản, lấy đạo đức làm tôn chỉ. Đó là văn hóa quan niệm Thiên, Địa, Nhân hợp nhất thành một thể, là văn hóa hòa hợp toàn bộ tự nhiên với người. Bởi vậy người xưa kính trọng Trời và tin vào Thần, “Xem Đạo của Trời để hiểu được Đạo làm người”. Văn hóa và tín ngưỡng của nhân loại song hành với nhau, trong nền văn minh huy hoàng sáng lạn luôn luôn lấp lánh ánh sáng rực rỡ của niềm tin.

Trí tuệ cổ nhân: Lấy tín ngưỡng làm căn bản, lấy đạo đức làm tôn chỉ
(Ảnh: Efired, Shutterstock)

Nhìn khắp toàn thế giới, tất cả các dân tộc từ xa xưa đều tin vào Thần. Ở phương Đông, văn minh truyền thừa qua nhiều đời, chủ yếu là nhờ trí tuệ cao quý ẩn tàng trong văn hóa truyền thống. Quan niệm về vũ trụ và quan niệm về đạo đức “Thiên nhân hợp nhất”, tư tưởng của tam giáo (Nho gia, Phật gia và Đạo gia) giao hòa với nhau, tạo thành một chuẩn mực cho tư tưởng và hành vi của mọi người. Nhờ đó các lý niệm đạo đức như lòng kính trọng Trời, kính trọng Đức, tu thân và thương dân đã bắt rễ sâu vào nhân tâm.

Bất luận là gia phái nào, tất cả tín ngưỡng tôn giáo và chính tín đều dạy người hướng thiện, tôn chỉ là dựa theo quy luật của vũ trụ mà hành động, đạt tới cảnh giới người và vũ trụ hài hòa, nếu không sẽ không phải là chính giáo. Đạo, tức là quy luật của vũ trụ, là cảnh giới cao nhất theo học thuyết của các gia, các phái trong văn hóa truyền thống. Cổ nhân cho rằng, vũ trụ là một thể sinh mệnh, “Đạo” là căn nguyên của vạn vật, là vĩnh viễn không thay đổi, con người muốn được trường cửu, thì đạo lý của con người phải phù hợp với Đạo Trời, lòng người hợp với Thiên Ý, tức là “Thiên nhân hợp nhất”.

Lão Tử trình bày hiểu biết của mình về Đạo như vậy: “Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh, tịch hề liêu hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi thiên hạ mẫu. Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết đạo” (Tạm dịch: “Có một vật sinh ra từ lúc hỗn nguyên, có từ trước khi Trời và Đất được sinh ra, yên lặng vô hình, độc lập mà không thay đổi, vận hành tuần hoàn mà không ngừng nghỉ. Nó có thể là mẹ của vạn vật trong vũ trụ. Ta không biết tên là gì, bèn viết là Đạo”). Sự thanh tĩnh, vô vi mà Lão Tử giảng chính là một loại trạng thái trong đó sinh mệnh có thể tiếp cận và trở về với Đạo.

Khổng Tử nói: “Duy thiên địa vạn vật chi mẫu, duy nhân vi vạn vật chi linh”, chỉ có Trời Đất là mẹ của vạn vật, chỉ có con người là anh linh của vạn vật. Ông cho rằng Trời là nguồn gốc của các quan niệm và nguyên tắc đạo đức, được tạo ra để ban cho con người các đức tính Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Phật gia giảng rằng Phật Pháp vô biên, từ bi phổ độ chúng sinh, giúp con người thông qua tu luyện Phật Pháp trở về lại được Thế giới Thiên quốc thần thánh trang nghiêm.

Con người không thể sống thiếu tín ngưỡng, nếu không sẽ không có được bến đỗ của tâm hồn, mất đi ý nghĩa và giá trị của đời người. “Tín ngưỡng” là sự tín phục và tôn trọng đối với chân lý của vũ trụ, lấy đó để hướng dẫn cho hành động của mình, nhờ vậy trong hoàn cảnh nào, vào bất kỳ lúc nào cũng có thể trước sau bảo trì niềm tin kiên định.

Phật gia và Đạo gia đều nhấn mạnh quá trình “Ngộ”. Người trong xã hội, nếu bị ích lợi vật chất mê hoặc, mất đi niềm tin, mất đi ngộ tính, sẽ lâm vào trạng thái hoang mang bối rối. Họ chỉ tin tưởng vào sự hưởng thụ vật chất, không tin ở tương lai, không có sự tỉnh giác của riêng bản thân mình, không có tiêu chuẩn giá trị và đối tượng để kính sợ, không có sự ràng buộc của tâm linh, cho nên liền muốn làm gì thì làm đó, đánh mất chuẩn mực đạo đức. Đó là lý do mà văn hóa truyền thống giảng rằng cần phải “ngộ Đạo làm người”.

Các điều khoản của pháp luật chỉ có thể ràng buộc được hành vi bên ngoài của con người, chứ không thể khiến nội tâm của con người kính sợ và tin phục, trong lúc người khác không nhìn thấy lại còn có thể phạm pháp. Còn đạo đức là tâm pháp để câu thúc con người. Tất cả các chính giáo thông qua việc thức tỉnh lương tri của mọi người, giúp họ nhận thức chính xác được chân nghĩa của đời người, của sinh mệnh thậm chí ý nghĩa của toàn vũ trụ, đạt tới ý thức đạo đức tự giác một cách cao độ.

Đạo đức giúp mọi người từ trong công danh, lợi lộc, tham dục siêu thoát ra ngoài, cố gắng hoàn thiện bản thân, khiến sinh mệnh bản thân có được tương lai tốt đẹp, có được hạnh phúc chân chính, được Trời Thần phù hộ. Chính giáo cho rằng Thượng Thiên là chủ, là đứng sau bảo hộ và vận hành hết thảy. Con người cần tín ngưỡng thành kính, khiêm tốn trong tâm. Người có thành tựu càng lớn lại càng nhu hòa khiêm tốn, càng có thể chứng ngộ được cái lý của các cảnh giới khác nhau.

Văn hóa là tải thể của tinh thần dân tộc, tín ngưỡng và văn hóa là không có ranh giới. Nho, Phật, Đạo ba nhà, đều có một tư tưởng thống nhất, là cho rằng Thượng Thiên đã ban cho con người đức tính mà nhà Nho gọi là bản tính con người, lòng trắc ẩn hoặc là lương tri; Đạo gia gọi là Thần tính; Phật gia gọi là Phật tính. Con người có thể thông qua giáo dục mà làm điều Thiện, thông qua tu thân mà đạt được cảnh giới “Thiên nhân hợp nhất”, “nhân Thần nhất thể”.

Từ góc độ của Nho gia mà xét, thì nhấn mạnh trọng Nhân trọng Lễ, khiêm hòa cung kính, cho rằng “Thiên tâm tồn nhân”, vạch rõ ra rằng “Lòng người bất nhân, Trời không phù hộ” là cái lý của Trời đất. Chú trọng dùng đạo đức lễ nghi thực hiện duy hộ trật tự xã hội, hình thành ý thức bác ái “Người nhân từ thì thương người”, ý thức được trách nhiệm xã hội “Việc của Thiên hạ là việc của chính mình”, cùng với sứ mệnh lịch sử “Thiên Thượng đã trao cho mỗi người một nhiệm vụ to lớn”, biết được thông qua tu thân có thể thành Thánh Hiền.

Từ góc độ của Đạo gia mà xét, “Nhân sinh nhi tĩnh, thiên chi tính dã” (Người tĩnh tại, chính là có Thiên tính), con người cần tu chân dưỡng tính, phản bổn quy chân, tư tưởng xem nhẹ danh lợi, tâm trong sáng ít dục vọng, mới có thể từ Tĩnh sẽ sinh Tuệ, cuối cùng tu thành Chân nhân.

Từ góc độ Phật gia mà xét, mỗi người đều có Phật tính, chỉ bởi sống trên cõi đời ô trọc mà bị lạc mất bản tính, thông qua tu luyện, không ngừng thăng hoa có thể tu thành Phật, đạt được Thiện quả.

Ba gia lớn này tư tưởng đều khuyên răn người đời cần phải kính Trời tin Thần, tu Đức hướng Thiện, tin tưởng vào chân lý “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”.

Những người có đạo đức cao thượng trong lịch sử, đều là những người thực hành và truyền bá chân lý và đạo nghĩa, là những gương mẫu trong việc tu thân. Như Ngũ Đế thời thượng cổ thuận ý Trời mà trị nước, tu thân chứng Đạo, khiến mọi người lúc ấy đều tự giác tín ngưỡng tôn sùng lẽ phải, thiên hạ thái bình hạnh phúc. Thánh nhân của tam giáo dạy dỗ chúng sinh, ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sau. Rất nhiều tiên tri và cao nhân thông qua quan sát thiên tượng, có thể biết trước những chuyện thế gian đại sự sắp phát sinh. Gia Cát Lượng viết “Mã tiền khóa”, Thiệu Ung viết “Mai hoa thi”, Lưu Bá Ôn viết “Thiêu bính ca”… Các đời nối tiếp cũng có rất nhiều nhân kiệt, từ Hoàng đế tới ẩn sĩ. Đường Thái Tông nghiêm khắc tự răn mình, rất mực khiêm tốn, khai sáng thời Trinh Quán thái bình. Đào Uyên Minh, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Duy, Tô Thức… những văn học gia ấy cũng đồng thời là người tu luyện, đều hòa hợp lý tưởng của bản thân với Đạo của Trời đất. Hiểu biết về chân nghĩa của đời người, sự tỉnh giác về vũ trụ, và những thành tựu tuyệt diệu, tất cả đều bắt nguồn từ nhân phẩm cao thượng thanh khiết, tín ngưỡng cao quý.

Người xưa ngửa mặt nhìn Trời với lòng sùng kính vô hạn, tin rằng người là do Thần tạo ra, văn hóa Thần truyền cấp cho văn hóa một sinh lực vĩ đại và thống nhất. Tín ngưỡng chính thống trở thành tinh thần nội tại, tích lũy được truyền thống uyên bác thâm sâu. Các tín ngưỡng chính thống đều hướng dẫn cho mọi người lấy đạo đức làm chuẩn mực cân nhắc hết thảy sự vật, giúp họ có thái độ và nhận thức chính xác về Thiện và Ác, Chính với Tà khi phải đối diện với các vấn đề có tính nguyên tắc.

Đăng lại có chỉnh sửa từ: “Văn hóa Thần truyền: Văn hóa và Tín ngưỡng
Đăng trên Minghui.org
Tác giả: Trí Chân

Xem thêm:

Mời xem video: