Ít người biết rằng những cái gọi là trào lưu, phong trào tư tưởng “tự do”, “giải phóng” thời hiện đại đều mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa cộng sản. Nó rất giỏi ngụy biện, biến hóa và lừa gạt con người, khiến người ta hết lần này đến lần khác bị mê hoặc trong những khẩu hiệu bề ngoài rất dễ nghe, không rõ là mình ủng hộ điều gì khi thông qua những chính sách và tư tưởng này, cuối cùng chìm đắm ngày càng sâu vào thế giới quan với những thước đo được xây dựng theo tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Cục diện gia đình truyền thống bị hủy hoại, tư tưởng con người bị biến dị mà chúng ta chứng kiến ngày nay, kỳ thực là kết quả của sự thực thi âm thầm từng bước chủ nghĩa cộng sản trong gần 200 năm qua.

Mục lục

  • Sự đối lập giữa truyền thống và hiện đại
  • Gia đình truyền thống là tiêu chuẩn lưu cấp cho con người
  • Chủ nghĩa cộng sản lấy tiêu hủy gia đình làm mục tiêu
  • Gen dâm loạn của chủ nghĩa cộng sản
  • Chế độ cộng thê của chính quyền cộng sản

Sự đối lập giữa truyền thống và hiện đại

Bắt đầu từ những năm 1960, các cuộc vận động đi ngược lại truyền thống phương Tây như phong trào nữ quyền hiện đại, giải phóng tình dục, quyền lợi cho người đồng tính, v.v. nổi lên rầm rộ. Đối tượng đầu tiên bị đả kích là các gia đình truyền thống. Đạo luật Cải cách Luật Gia đình năm 1969 ở Mỹ đã bật đèn xanh cho tình trạng đơn phương ly hôn. Các bang cũng theo đó mà ban hành luật tương tự.

Từ những năm 1960 đến những năm 1980, tỷ lệ ly hôn trên kết hôn ở Mỹ đã tăng hơn gấp đôi. Vào những năm 1950, có khoảng 11% trẻ em sinh ra trong những gia đình có kết hôn phải chứng kiến cha mẹ ly hôn, đến những năm 1970, tỷ lệ này đã lên đến 50%. [1] Theo số liệu của Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát Bệnh tật Hoa Kỳ (CDC), năm 2016, hơn 40% trẻ sơ sinh ở Mỹ thuộc diện ngoài giá thú. Vậy mà vào năm 1956, con số này là chưa đến 5%. [2]

Trong xã hội truyền thống phương Đông cũng như phương Tây, sự trinh tiết trong quan hệ giữa nam và nữ vốn được coi là điều đáng trân trọng thì đến nay lại trở thành điều kỳ quặc, thậm chí còn bị đem ra giễu cợt. Cùng với phong trào nữ quyền, phong trào “hôn nhân đồng tính” cũng đặt ra yêu cầu phải định nghĩa lại khái niệm gia đình và hôn nhân. Thậm chí, một giáo sư luật, hiện là thành viên của Ủy ban Cơ hội Bình đẳng Việc làm Liên bang của Hoa Kỳ (U.S. Federal Equal Employment Opportunity Commission), vào năm 2006, còn công bố một tuyên bố có tên là “Vượt lên hôn nhân đồng tính: Tầm nhìn chiến lược mới cho gia đình và các mối quan hệ của chúng ta”. Nó đề xướng mọi người có thể tùy theo nguyện vọng của mình mà lập gia đình dưới bất cứ hình thức nào (kể cả chế độ đa phu, đa thê, hôn nhân đồng tính v.v.). Vị giáo sư này còn cho rằng gia đình và các quan hệ hôn nhân truyền thống không nên được hưởng nhiều quyền hợp pháp hơn các loại hình “gia đình” khác. [3]

Ở các trường công lập, quan hệ trước hôn nhân, quan hệ đồng tính, vốn bị cấm trong xã hội truyền thống suốt mấy nghìn năm, nay không những được coi là bình thường mà thậm chí có trường học còn ngầm hoặc công khai cổ vũ, cho rằng giáo dục học sinh theo quan niệm truyền thống là vô nhân đạo, mà cần phải để cho xu hướng giới tính của trẻ em được “tự do” phát triển, theo đó mà tỷ lệ người đồng tính luyến ái, lưỡng tính luyến ái, chuyển giới, v.v. gia tăng rõ rệt. Đơn cử năm 2012, Khu Trường học trên Đảo Rhode của Mỹ cấm tổ chức khiêu vũ cho cha và con gái, trò chơi bóng chày cho mẹ và con trai, vốn là một truyền thống của trường học thể hiện vai trò giới tính tự nhiên – tuyên bố rằng các trường công lập không có quyền nhồi nhét vào đầu trẻ em những quan niệm như trẻ em nữ thích nhảy múa, trẻ em nam thích chơi bóng chày. [4]

Tuyên ngôn Đảng Cộng sản kêu gọi tiêu diệt gia đình, giáo hội và quốc gia. Xu thế gia đình truyền thống dần bị tiêu hủy giờ đã rõ, chủ trương “bãi bỏ gia đình” trước khi thực hiện lời hứa hẹn “bãi bỏ giai cấp” của chủ nghĩa cộng sản đã trở thành hiện thực.

Trong xã hội phương Tây, hiện tượng tiêu hủy gia đình biểu hiện ở rất nhiều phương diện, không chỉ do tác động của các phong trào như nữ quyền, giải phóng tình dục, đồng tính luyến ái mà còn được xã hội phe cánh tả, cấp tiến… hậu thuẫn một cách công khai hoặc âm thầm bằng pháp luật, diễn giải luật, và chính sách kinh tế và được các nhà tư tưởng học của nó tung hô dưới danh nghĩa “tự do”, “bình đẳng”, “quyền lợi”, “giải phóng”, v.v.. Những nhân tố này lôi cuốn, dẫn dắt người ta vứt bỏ và làm biến dị quan niệm hôn nhân và gia đình truyền thống.

Hậu quả trực tiếp của cục diện này là gia đình – nhân tố cơ bản để ổn định xã hội bị phá hoại, đạo đức truyền thống do Thần lưu lại bị phá hủy, chức năng của gia đình trong việc truyền thừa, bồi dưỡng tín ngưỡng và giá trị quan truyền thống cho thế hệ sau bị mất đi, khiến cho thế hệ trẻ không còn được câu thúc bởi quan niệm truyền thống, và dễ dàng bị những thứ phụ diện do chủ nghĩa cộng sản tạo ra nắm giữ, khống chế linh hồn.

Gia đình truyền thống là tiêu chuẩn lưu cấp cho con người

Trong văn hóa truyền thống phương Đông, hôn nhân là do “Trời tác hợp”. Trong văn hóa truyền thống phương Tây, hôn nhân được Chúa chứng giám và cho phép. Theo các truyền thuyết dân gian và trong tôn giáo, con người đều là do Thần tạo ra dựa theo hình tượng của bản thân mình, đều là những chúng sinh bình đẳng trước Thần. Nhưng Thần đồng thời cũng tạo nên sự khác biệt về sinh lý giữa nam và nữ, quy định ra những vai trò khác nhau của nam và nữ.

Bởi vì Chúa tạo ra Eva từ xương sườn của Adam[5], nên người chồng phải yêu thương, bảo vệ vợ mình giống như bảo vệ thân thể của mình vậy, thậm chí sẵn sàng “xả thân” để bảo vệ cho vợ. Còn người phụ nữ cũng phải phối hợp và trợ giúp chồng, để cho “hai vợ chồng như một”. Nam giới chịu trách nhiệm vất vả làm lụng nuôi gia đình; phụ nữ “mang nặng đẻ đau”, đều có nguyên nhân từ những tội lỗi khác nhau của con người.

Tương tự, trong văn hóa truyền thống phương Đông, nam giới là dương, tượng trưng cho trời, không ngừng vươn lên, gánh vác trách nhiệm, dầm mưa dãi nắng, bảo vệ gia đình vượt qua khó khăn. Nữ giới là âm, tượng trưng cho đất, lấy đức dày mà chở vạn vật, phải mềm mỏng, biết chăm lo cho mọi người, có nghĩa vụ trợ giúp chồng, dạy dỗ con cái. Nam nữ mỗi người làm tốt vai trò của mình mới có thể đạt được âm dương hòa hợp, con cái mới có thể trưởng thành một cách lành mạnh.

Từ lý niệm truyền thống mà phân tích thì cả phương Đông lẫn phương Tây đều có cùng một giá trị phổ quát cho nam và nữ, chỉ khác nhau ở cách thể hiện mà thôi. Gia đình truyền thống phát huy chức năng truyền thừa tín ngưỡng, đạo đức, và duy trì ổn định xã hội. Gia đình là cái nôi, là sợi dây gắn kết, truyền thừa các giá trị. Người thầy đầu tiên trong cuộc đời đứa trẻ chính là cha mẹ. Nếu đứa trẻ qua lời nói và cử chỉ mẫu mực của cha mẹ mà học được những đức tính truyền thống tốt đẹp như vô tư, khiêm tốn, biết ơn, kiên nhẫn, như vậy nó sẽ được lợi ích suốt đời.

Cuộc sống hôn nhân truyền thống cũng giúp nam giới và phụ nữ cùng phát triển lành mạnh về mặt đạo đức. Nó đòi hỏi người chồng và người vợ phải có thái độ hoàn toàn mới đối với tình cảm và dục vọng của bản thân, biết quan tâm, bao dung lẫn nhau. Điều này khác biệt rất lớn về bản chất so với việc sống chung, hai người vui vẻ thì ở với nhau, không vui vẻ thì chia tay, kiểu quan hệ này không khác gì quan hệ bạn bè thông thường, cũng không cần ràng buộc bởi hôn nhân. Marx còn cổ xúy cho “tình dục không cần bất cứ ước thúc nào” [6], hàm ý của nó chính là phải giải thể hôn nhân truyền thống, cuối cùng tiêu hủy gia đình truyền thống.

Chủ nghĩa cộng sản lấy tiêu hủy gia đình làm mục tiêu

Chủ nghĩa cộng sản cho rằng gia đình là hình thức tồn tại của chế độ tư hữu. Muốn tiêu hủy chế độ tư hữu thì tất yếu phải tiêu hủy gia đình. “Giáo lý” của chủ nghĩa cộng sản coi kinh tế là yếu tố then chốt để chỉ đạo quan hệ gia đình, chủ nghĩa của Marx – Freud khi đó lại coi ham muốn nhục dục của con người là then chốt để lý giải vấn đề gia đình, hai tư tưởng này đều có điểm tương đồng là gạt luân lý đạo đức cơ bản của con người sang một bên, tôn sùng vật chất, dục vọng, kỳ thực là biến con người thành con vật. Đó là thứ tư tưởng méo mó hủy hoại gia đình qua việc làm biến dị tư tưởng của con người.

Chủ nghĩa cộng sản có một học thuyết rất mê hoặc lòng người, đó là phải “giải phóng toàn nhân loại”. Đây không chỉ là sự giải phóng mang ý nghĩa kinh tế, nó cũng bao hàm việc “giải phóng” bản thân nhân loại. Đối lập với “giải phóng” là áp bức. Vậy thì sự áp bức nào khiến nhân loại phải “giải phóng” bản thân? Câu trả lời của chủ nghĩa cộng sản là: áp bức đến từ quan niệm của bản thân, quan niệm này bị đạo đức xã hội truyền thống ước chế: gia đình truyền thống áp bức phụ nữ, đạo đức về tình dục truyền thống áp bức nhân tính, v.v..

Nói thẳng ra, “nhân tính” mà chủ nghĩa cộng sản nói tới thực chất là “ma tính”, “thú tính”. Còn “đạo đức truyền thống áp bức” mà chủ nghĩa cộng sản bàn tới mới chính là “nhân tính” mà con người cần duy trì, cần lấy làm nền tảng đạo đức và thước đo của xã hội.

Lý luận về “giải phóng bản thân” của chủ nghĩa cộng sản được các phong trào nữ quyền và đồng tính luyến ái của các thế hệ sau kế thừa và phát triển, dẫn đến các quan niệm phản truyền thống như phản đối gia đình và hôn nhân truyền thống, giải phóng tình dục và đồng tính luyến ái… rầm rộ khởi lên, trở thành công cụ quan trọng để ma quỷ tiêu hủy gia đình. Chủ nghĩa cộng sản phải lật đổ hết thảy quan niệm đạo đức truyền thống, điểm này được thể hiện rõ trong “Tuyên ngôn của chủ nghĩa cộng sản”.

Gen dâm loạn của chủ nghĩa cộng sản

Ma quỷ đứng sau chủ nghĩa cộng sản có trăm phương nghìn kế để phá hoại gia đình truyền thống. Từ đầu thế kỷ 19, nó đã lựa chọn những nhân vật đại biểu cho chủ nghĩa xã hội không tưởng để gieo những hạt mầm tư tưởng của nó. Robert Owen – người khai mở tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản đã thành lập công xã chủ nghĩa xã hội không tưởng “Sự hòa hợp mới” tại bang Indiana, Mỹ vào năm 1824 (hai năm sau đã kết thúc thất bại). Vào ngày thành lập công xã, ông ta tuyên bố rằng công xã sẽ giải cứu nhân loại khỏi “tam vị nhất thể của ác ma lớn nhất”; ông ta giải thích từ “ác ma lớn nhất” là:

“Tôi muốn chỉ tài sản tư hữu, những tôn giáo và hôn nhân hoang đường dựa trên cơ sở tài sản tư hữu”.

“Nay tôi tuyên bố tới các vị và toàn thế giới, rằng Con người, cho đến giờ phút này, ở mọi nơi trên trái đất này, là nô lệ của tam vị nhất thể của ác ma lớn nhất mà có thể hợp lại để gây ra tội lỗi cả về tinh thần lẫn thể xác cho toàn nhân loại. Tôi muốn nói đến tư hữu hay tài sản cá nhân – những tôn giáo ngu muội, hoang đường – và hôn nhân dựa trên tài sản cá nhân kết hợp với một trong những tôn giáo hoang đường này.” [7]

Sau khi Owen qua đời, một người theo chủ nghĩa cộng sản không tưởng có tầm ảnh hưởng lớn nữa là Charles Fourier, người Pháp. Tư tưởng của ông ta đã ảnh hưởng sâu sắc đến Marx và những người theo chủ nghĩa Marx sau này. Sau khi ông ta chết, các học trò của ông ta đã mang tư tưởng của ông ta vào Cách mạng khắp châu Âu năm 1848 và Công xã Paris, sau đó lại truyền sang Mỹ. Fourier là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “nữ quyền” (tiếng Pháp là “féminisme”).

Trong xã hội cộng sản lý tưởng của ông ta (gọi là “Phalanx”), gia đình truyền thống bị dè bỉu, khinh bỉ, việc “quần giao hoan lạc” (quan hệ tập thể) được ca tụng để giải phóng hoàn toàn những tình cảm mãnh liệt của con người. Ông ta cho rằng xã hội công bằng nên chăm sóc cho những người “yếu thế” (như người già hoặc người khuyết tật), để bảo đảm mọi người đều có “quyền” được thỏa mãn về tình dục. Ông ta cho rằng sự thỏa mãn về tình dục dưới bất cứ hình thức nào, kể cả cuồng dâm, bạo lực tình dục, thậm chí cả sự loạn luân giữa những người trong cùng một gia đình và cả giao phối với súc vật, chỉ cần không phải là cưỡng ép, đều nên được cho phép. Do vậy, có thể nói Fourier là người tiên phong cho “lý luận tình dục đồng giới” – một nhánh của phong trào đồng tính luyến ái (LGBTQ) đương thời.

Dưới ảnh hưởng của Owen và đặc biệt là Fourier, vào thế kỷ 19, tại Mỹ đã xuất hiện mấy chục công xã cộng sản chủ nghĩa không tưởng, nhưng cũng chỉ như phù dung sớm nở tối tàn, sau đó đều thất bại. Tồn tại được lâu nhất trong số đó là Công xã Oneida, thành lập dựa trên cơ sở nền tảng lý luận của Fourier, duy trì được 32 năm. Công xã này xem thường hôn nhân truyền thống một vợ một chồng, cổ xúy việc quần hôn lạm giao. Các xã viên thông qua việc phân phối lại hàng tuần để có cơ hội “công bằng” được “ái ân” với bất cứ người nào mà mình tâm đầu ý hợp. Cuối cùng, người sáng lập John Humphrey Noyes vì lo sợ luật tố tụng của giáo hội đã bí mật bỏ trốn lưu vong, công xã bị ép phải bỏ chế độ cộng thê. Lý thuyết của Noyes sau này trở thành “Kinh điển của chủ nghĩa cộng sản”.

Cái gen di truyền dâm loạn của chủ nghĩa cộng sản là hệ quả tất yếu trong lý luận phát triển của nó. Ngay từ lúc bắt đầu, ma quỷ của chủ nghĩa cộng sản đã mê hoặc, khiến con người quay lưng lại với các giáo nghĩa của Thần, phủ nhận Thần, phủ nhận nguồn gốc của tội lỗi.

Theo logic này, những vấn đề xã hội, vốn do sự sa đọa về đạo đức của con người gây ra, lại bị quy kết thành do chế độ tư hữu gây ra. Chủ nghĩa cộng sản khiến con người tin rằng tiêu hủy tài sản tư hữu thì con người sẽ không còn phải vì nó mà tranh giành nữa, nhưng cho dù sau khi tài sản đã được công hữu thì con người vẫn có thể tranh giành nhau để được phối ngẫu, do vậy những nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng công nhiên đưa ra phương án giải quyết là “chế độ cộng thê”.

“Vườn lạc thú” của cộng sản mà những nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản này sáng tạo ra đã trực tiếp thách thức gia đình truyền thống và cổ xúy cho “chế độ cộng thê”, cho nên các cộng đồng, giáo hội, chính phủ đều cho rằng điều này chính là thách thức đối với luân lý, đạo đức xã hội, do đó họ đã nhất trí lựa chọn hành động để áp chế nó. Tai tiếng bê bối của chế độ “cộng sản cộng thê” của chủ nghĩa cộng sản lan truyền nhanh chóng.

Sự thất bại của công xã chủ nghĩa xã hội không tưởng đã cho Marx và Engels một bài học: Thời cơ công khai tuyên truyền chế độ cộng thê dâm loạn vẫn chưa chín muồi. Mặc dù vậy, mục tiêu “tiêu hủy gia đình” trong “tuyên ngôn của chủ nghĩa cộng sản” vẫn không hề thay đổi, họ đã dùng một phương pháp kín đáo để tuyên truyền về lý luận tiêu hủy gia đình của mình.

Sau khi Marx qua đời, Engels xuất bản cuốn sách “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước theo nghiên cứu của Lewis H. Morgan” để bổ trợ cho lý luận về hôn nhân, gia đình của Marx. Trong sách có đoạn sau:

“[Sự xuất hiện của chế độ một vợ một chồng] là để duy trì nòi giống, mục đích là để sinh con đẻ cái theo bổn phận làm cha mẹ không thể chối bỏ; việc sinh con đẻ cái ấy là cần thiết vì những đứa trẻ sau này sẽ trở thành người kế thừa tài sản của cha chúng. Nó khác với hôn nhân dựa trên tình cảm đôi lứa, khiến hôn nhân không được giải thể theo ý nguyện của mỗi bên.” [8]

Engels gọi “chế độ một vợ một chồng” này là hình thức dựa trên tài sản cá nhân, và rằng sau khi tài sản được công hữu hóa thì một hình thức “hôn nhân” hoàn toàn dựa trên cơ sở tình yêu “hoàn toàn mới” sẽ xuất hiện. Không có sự ước thúc về tài sản, hôn nhân chỉ thuần túy dựa trên sự ái mộ.

Thế nhưng điều thoạt nghe thật cao thượng này chỉ là sự dối trá để che dấu đi mục đích ban đầu đằng sau của chũ nghĩa cộng sản. Trên thực tế, tình cảm là thứ không đáng tin cậy nhất của con người. Hôm nay yêu người này, ngày mai yêu người khác, điều này chẳng phải đồng nghĩa với việc cổ xúy cho tình dục bừa bãi sao? Hiện tượng tình dục bừa bãi sau khi chính quyền cộng sản Liên Xô và Trung Quốc thành lập (xem mục sau) chính là kết quả của việc thực thi chủ nghĩa Marx.

Quan hệ vợ chồng không thể luôn thuận buồm xuôi gió, nhưng lời thệ ước trong hôn nhân truyền thống “sống với nhau đến đầu bạc răng long” chính là lời thệ ước với Thần, với Chúa. Điều này cho thấy, khi bắt đầu cuộc hôn nhân, hai bên đã chuẩn bị tinh thần cho tình huống tình cảm của họ có thể gặp khó khăn trong tương lai, và cả hai cùng đồng lòng quyết tâm đối mặt với mọi hoàn cảnh khó khăn đó. Sợi dây gắn bó hôn nhân không chỉ là tình cảm, mà còn là trách nhiệm, là sự cảm thông, chăm sóc đối với nửa kia, đối với con cái và gia đình. Điều này khiến cho cả hai người trở thành những người đàn ông và phụ nữ trưởng thành, có trách nhiệm và đạo đức.

Trong “Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước”, Marx và Engels tuyên bố rằng trong xã hội cộng sản thì tài sản được sở hữu chung, việc nhà trở thành nghề nghiệp, sinh con cũng không cần phải trông nom, bởi vì nhà nước sẽ chăm lo và giáo dục trẻ em.

“Như vậy hoàn toàn không cần lo lắng đến bất cứ ‘hậu quả’ gì, mà tất cả điều này chính là nhân tố xã hội – về kinh tế và đạo đức – chủ yếu nhất ngày nay, nó cản trở cô gái hiến dâng hết mình cho chàng trai mà mình yêu. Điều này chẳng phải ngăn trở họ được quan hệ tình dục mà không phải chịu bất cứ ràng buộc nào hay sao? Cùng theo đó, xã hội ngày càng khoan dung và xem nhẹ đối với trinh tiết của người phụ nữ”. [9]

Trong những tuyên bố của Marx, mặc dù thường xuyên xuất hiện những từ ngữ như “tự do”, “giải phóng”, “yêu đương” để che đậy bản chất thực, kỳ thực là cổ xúy, kêu gọi vứt bỏ trách nhiệm đạo đức của con người, khiến cho hành vi của con người hoàn toàn bị dục vọng chi phối, chính là “ma tính”, “thú tính” làm chủ. Nhưng ở thời đại của Marx và Fourier, đa số dân chúng vẫn chưa hoàn toàn quay lưng lại với giáo lý của Thần, cho nên người ta vẫn còn khá đề phòng trước tư tưởng dâm loạn của chủ nghĩa cộng sản. Bản thân Marx có lẽ cũng không thể tưởng tượng được rằng nhân loại sau thế kỷ 20 lại lấy đủ mọi lý do để tiếp nhận tư tưởng dâm loạn của ông ta và thực thi mục tiêu tiêu hủy gia đình của ông ta.

Ma quỷ của chủ nghĩa cộng sản đã để lại những hạt giống nhằm dẫn dụ nhân loại khuất phục trước dục vọng mà rời xa giáo lý của Thần, dần dần rớt xuống, cuối cùng, để nó thực hiện mục tiêu “tiêu hủy gia đình”, biến dị nhân tính, khiến con người rơi vào sự khống chế của nó.

Chế độ cộng thê của chính quyền cộng sản

Như đã nói bên trên, dâm loạn là cái gen di truyền của chủ nghĩa cộng sản. Marx, người đặt nền móng cho chủ nghĩa cộng sản, đã cưỡng hiếp người hầu gái của ông ta, rồi để đứa con ngoài giá thú đó cho Engels nuôi dưỡng. Engels chung sống với hai phụ nữ là chị em gái. Lenin, lãnh tụ Đãng Cộng sản Liên Xô (ĐCSLX), ngoại tình với Elena suốt 10 năm, trong khi vẫn qua lại với một cô gái người Pháp; ông ta đã mắc bệnh giang mai vì chơi gái. Một lãnh tụ đảng cộng sản khác là Stalin, cũng dâm loạn vô độ như vậy; ông ta còn lợi dụng vợ của những người khác.

Sau khi giành chính quyền, ĐCSLX đã lập tức thực hiện chế độ cộng sản cộng thê trên quy mô lớn, ĐCSLX lúc đó thậm chí còn được coi là tiên phong trong phong trào “giải phóng tình dục” ở phương Tây. Năm 1990, tạp chí “Tổ quốc” của Nga kỳ số 10 từng tiết lộ toàn bộ hiện tượng cộng thê thời kỳ đầu ở Nga, biểu hiện điển hình của cuộc cách mạng tình dục chính là đời tư của các lãnh tụ Xô-viết như Trotsky, Bukharin, Antonov, Kollontai…, trong đó nói rằng họ tùy tiện như chó giao phối với nhau vậy.

Năm 1904, Lenin từng viết: “Ham muốn tính dục có thể khiến năng lượng tinh thần được giải phóng – không phải vì những giá trị gia đình giả tạo, mà phải loại bỏ cục máu đông này đi để cho chủ nghĩa xã hội tiến đến thắng lợi”. [10]

Trong Đại hội III của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga, Leon Trotsky đã đề xuất rằng sau khi những người Bolshevik của ĐCSLX giành chiến thắng, sẽ phải xây dựng một lý thuyết mới về quan hệ tình dục. Lý luận của chủ nghĩa cộng sản yêu cầu phải tiêu hủy gia đình, quá độ đến thời kỳ tự do tình dục, đồng thời đề xuất giao toàn bộ trách nhiệm giáo dục trẻ em cho nhà nước.

Năm 1911, trong một bức thư gửi Lenin, Trotsky viết: “Không còn nghi ngờ gì nữa, áp bức tình dục là thủ đoạn chủ yếu của những kẻ nô dịch. Chừng nào còn loại áp bức đó thì đừng nói đến tự do thực thụ. Gia đình, như một tổ chức của giai cấp tư sản, đã tồn tại quá lâu rồi. Chúng ta cần nói nhiều hơn về vấn đề này với người lao động.”

Lenin trả lời: “Không chỉ là gia đình. Mọi cấm đoán về tình dục phải bị xóa bỏ… Chúng ta có thể học hỏi từ phong trào phụ nữ đòi quyền bầu cử [ở Anh đầu thế kỷ 20]: Ngay cả lệnh cấm đối với tình yêu đồng giới cũng phải dỡ bỏ.” [11]

Sau khi ĐCSLX giành chính quyền, ngày 19/12/1917, trong các sắc lệnh của Lenin đã bao gồm những nội dung về “Bãi bỏ hôn nhân” và “Bãi bỏ hình phạt cho đồng tính luyến ái”… [12]

Lúc đó, ở Liên Xô còn có một khẩu hiệu điên cuồng: “Đả đảo liêm sỉ”. Để nhanh chóng đào tạo nên “những con người mới” của chủ nghĩa xã hội, đảng cộng sản Liên Xô đã làm biến dị tư tưởng con người bằng cách cổ xúy người dân xuống đường trần truồng dạo chơi. Họ dạo chơi khắp nơi, điên cuồng kêu gào: “Đả đảo liêm sỉ”, “Liêm sỉ là giai cấp tư sản trong quá khứ của người dân Xô-viết”. [13]

Ngày 19/12/1918 là ngày kỷ niệm ban hành sắc lệnh “bãi bỏ hôn nhân” ở Petrograd, những nhóm người đồng tính nữ tổ chức hoạt động chúc mừng. Trotsky trong cuốn hồi ký của mình đã ghi lại sự việc này. Ông nói, tin tức về hoạt động diễu hành của những người đồng tính nữ khiến Lenin rất vui mừng. Lenin còn khuyến khích nhiều người trần truồng xuống đường hơn: “Hãy tiếp tục nỗ lực, các đồng chí.” [14]

Năm 1923, cuốn tiểu thuyết “Tình yêu giữa ba thế hệ” của Liên Xô đã khiến khái niệm “chủ nghĩa cốc nước” được lan truyền nhanh chóng. Tác giả cuốn tiểu thuyết này là một Chính ủy Nhân dân của Quỹ Phúc lợi Xã hội, Alexandra Kollontai, một “chiến sĩ” của phong trào “giải phóng phụ nữ” tham gia vào mặt trận của ĐCSLX. “Chủ nghĩa cốc nước” mà cuốn tiểu thuyết này ca ngợi, thực chất là “phóng túng tình dục”: Trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhu cầu thỏa mãn tình dục cũng đơn giản và bình thường như uống một cốc nước. “Chủ nghĩa cốc nước” đã được truyền bá rộng rãi trong công nhân, đặc biệt là trong giới học sinh thiếu niên.

Ở Liên Xô lúc đó, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân xuất hiện rộng rãi, quan hệ tình dục trong giới trẻ đã trở nên công khai. “Đạo đức hiện tại của giới trẻ chúng ta nên là như vậy,” bà Smidovich, một người theo chủ nghĩa cộng sản nổi tiếng, tuyên bố trên tờ Pravda vào ngày 21/3/1925 như sau:

“Mỗi đoàn viên thanh niên cộng sản, kể cả học sinh của Rabfak [trường đào tạo của Đảng Cộng sản], đều có quyền được thỏa mãn về tình dục. Khái niệm này đã trở thành một tiên đề, và tiết chế dục vọng là quan niệm của giai cấp tư sản. Nếu có chàng trai nào đó ve vãn một cô gái trẻ, cho dù cô ấy là sinh viên, công nhân hay học sinh thì cô ấy nên đáp ứng mọi đòi hỏi của chàng trai; nếu không, cô ấy sẽ bị coi là ‘con gái’ của giai cấp tư sản, không xứng với danh hiệu người cộng sản chân chính.” [15]

Không chỉ vậy, trong xã hội còn xuất hiện phong trào ly hôn trên diện rộng. Trong cuốn sách “Từ người cộng sản đến người cấp tiến, cánh tả đã phá hoại gia đình và hôn nhân của chúng ta như thế nào”, Paul Kengor đã viết: “Tỷ lệ ly hôn tăng vọt như tên lửa, chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Trong thời gian ngắn ngủi, gần như người dân nào ở Moscow cũng ly hôn.” Năm 1926, tạp chí nổi tiếng của Mỹ tờ The Atlantic (Đại Tây Dương) đã đăng một bài báo có tiêu đề “Người Liên Xô phấn đấu bãi bỏ hôn nhân”, tiết lộ về tình hình kinh hoàng ở Liên Xô lúc đó. [16]

Thời kỳ giải phóng tình dục ở Liên Xô còn xuất hiện hiện tượng “gia đình Thụy Điển” – dù chẳng có gì liên quan đến Thụy Điển cả, mà hoàn toàn là người Nga. Đây là hiện tượng một nhóm lớn cả đàn ông lẫn phụ nữ sống chung với nhau và quan hệ tình dục bừa bãi. Hiện tượng này đã tạo điều kiện cho việc loạn giao và tình dục bừa bãi, đồng tính luyến ái, làm đảo lộn luân lý, hủy hoại gia đình, khiến bệnh tình dục, cưỡng hiếp, v.v. gia tăng. [17]

Cùng với sự phát triển của các công xã xã hội chủ nghĩa, “gia đình Thụy Điển” cũng nở rộ khắp Liên Xô. Hiện tượng này được coi là “quốc hữu hóa” hay “xã hội chủ nghĩa hóa” phụ nữ. Phong trào “Phụ nữ xã hội chủ nghĩa” ở Yekaterinburg năm 1918 là một ví dụ đau lòng như thế. Sau khi những người Bolshevik chiếm đóng thành phố này, họ đã ban hành một pháp lệnh trên báo “Tin tức Xô-viết”, quy định phụ nữ từ 16 đến 25 tuổi đều phải “xã hội hóa”. Pháp lệnh này được một số quan chức ĐCSLX thực thi, lúc đó có 10 cô gái đã bị “xã hội hóa”. [18]

Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 20, ĐCSLX lại nhanh chóng thắt chặt chính sách về tình dục. Lenin, khi nói chuyện với nhà hoạt động phụ nữ Clara Zetkin, đã lên án mạnh mẽ “chủ nghĩa cốc nước”, chụp cho nó cái mũ “phản chủ nghĩa Marx”, “phản xã hội”. [19] Nguyên nhân là giải phóng tình dục đã gây ra những hậu quả không mong muốn to lớn: nhiều trẻ sơ sinh không ai quan tâm nuôi dưỡng, năng suất lao động bị đình trệ… Việc giải thể gia đình cuối cùng đã dẫn đến sự tan rã của xã hội.

Đảng Cộng sản Trung Quốc khi mới thành lập cũng xảy ra tình hình giống như Liên Xô. Người lãnh đạo thời kỳ đầu là Trần Độc Tú cũng có cuộc sống đời tư phóng túng. Theo hồi ức của Trịnh Siêu Lân, Trần Bích Lan, những nhà cộng sản như Cù Thu Bạch, Thái Hòa Sâm, Trương Thái Lôi, Hướng Cảnh Dư, Bành Thuật Chi đều có tình sử mê loạn, cuồng vọng tình dục thậm chí còn cao trào hơn cả “chủ nghĩa cốc nước” trong thời Liên Xô.

Không chỉ giới lãnh tụ, trong tầng lớp trí thức, tại khu Xô-viết trung ương và khu Xô-viết Ngạc Dự Hoàn thời kỳ đầu mới xây dựng chính quyền, cuộc sống của người dân cũng tràn ngập “tự do tình dục”. Do đề xướng bình đẳng phụ nữ, việc kết hôn và ly hôn hoàn toàn tự do nên xảy ra rất nhiều tình huống “vì để thỏa mãn nhu cầu tình dục mà phương hại đến nhiệm vụ cách mạng”.

Thanh niên ở khu Xô-viết còn thường xuyên lấy cớ là “nhận mẹ nuôi” để tiếp cận quần chúng nhằm tán tỉnh yêu đương; các cô gái trẻ, số người có đến sáu, bảy bạn tình cũng không ít. Theo “Tập văn kiện lịch sử cách mạng khu Xô-viết Ngạc Dự Hoàn (ở Hồ Bắc – Hà Nam – An Huy)”, những cán bộ đảng ở Hồng An, Hoàng Sâm, Hoàng Bì, Quang Sơn “có khoảng 3/4 người có quan hệ tình dục với hàng chục, hàng trăm phụ nữ”. [20]

Cuối xuân năm 1931, khi Trương Quốc Đạo lên nắm quyền ở khu Xô-viết Ngạc Dự Hoàn, đã phát hiện bệnh giang mai phát triển trên diện rộng, đành phải báo cáo trung ương cầu cứu “bác sỹ khám chữa bệnh giang mai”. Nhiều năm sau, trong hồi ký của ông vẫn còn ghi lại những ký ức về tình trạng “tiêu khiển phụ nữ”, “tình dục bừa bãi với phụ nữ” và “những nhân tình của các tướng lĩnh cấp cao” ở khu Xô-viết.

Năm 1937, Lý Khắc Nông đảm nhận chức chủ nhiệm Bát lộ quân đóng tại Bắc Kinh, phụ trách lĩnh quân lương, thuốc men, vật tư. Một lần, bộ chủ quản chính phủ quốc dân nhận được đơn xin thuốc của Bát Lộ Quân, phát hiện phần lớn trong đó là thuốc trị bệnh hoa liễu. Nhân viên phụ trách hỏi Lý Khắc Nông: “Lẽ nào trong quân đội của ngài lại có nhiều người mắc bệnh này vậy sao?” Lý Khắc Nông không biết nói gì, đành phải nói dối là để cho người dân trong vùng trị bệnh. [22]

Vào những năm 1930, tự do tình dục cũng trở thành vấn nạn của chính quyền ĐCSTQ. Giống như Liên Xô, họ không những không giải được vấn đề xã hội, mà còn khiến cho những “chiến sỹ hồng quân” đã kết hôn bị dao động, lo lắng khi gia nhập quân đội rồi thì vợ sẽ có quan hệ ngoài hôn nhân hoặc ly hôn, do vậy mà ảnh hưởng đến sức chiến đấu của quân đội. Hơn nữa, việc tự do tình dục thái quá này càng khẳng định tiếng ác “cộng tài sản, cộng thê” của nó. Do vậy, các khu Xô viết đành phải công bố các chính sách bảo vệ hôn nhân, hạn chế số lần ly hôn, v.v.

(Còn tiếp)

Đăng lại có chỉnh sửa từ loạt bài của The Epoch Times (thespecterofcommunism.com)
Nguyễn Vĩnh tổng hợp

Xem thêmHoa Kỳ lập quốc: Thế nào là tự do? Tự do tình dục có là quyền tự do?

Tài liệu tham khảo:

[1] W. Bradford Wilcox, “The Evolution of Divorce,” National Affairs, Number 35, Spring 2018.https://www.nationalaffairs.com/publications/detail/the-evolution-of-divorce

[2] Xem Bảng 1-17. “Number and Percent of Births to Unmarried Women, by Race and Hispanic Origin: United States, 1940-2000,” CDC,https://www.cdc.gov/nchs/data/statab/t001x17.pdf

[3] “Beyond Same-Sex Marriage: A New Strategic Vision for All Our Families and Relationships,” Studies in Gender and Sexuality, 9:2 (July 1, 2006): 161-171.https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/15240650801935198.

[4] Victoria Cavaliere, “Rhode Island School District Bans Father-Daughter, Mother-Son Events,”http://www.nydailynews.com/news/national/rhode-island-school-district-bans-father-daughter-mother-son-events-article-1.1162289#nt=byline.

[5] Genesis 2:23,http://biblehub.com/genesis/2-23.htm.

[6] Engels, Frederick. N.d., “Origins of the Family. Chapter 2 (IV),” accessed June 17, 2018.https://www.marxists.org/archive/marx/works/1884/origin-family/ch02d.htm.

[7] “Robert Owen, Critique of Individualism (1825-1826),” n.d., Indiana University. Accessed June 17, 2018.https://web.archive.org/web/20171126034814/http://www.indiana.edu:80/~kdhist/H105-documents-web/week11/Owen1826.html.

[8] Engels, Frederick, n.d. “Origins of the Family. Chapter II (4.),” accessed June 17, 2018.https://www.marxists.org/archive/marx/works/1884/origin-family/ch02d.htm.

[9] Engels, Như trên

[10] This translation is from the Russian: Melnichenko, Alexander, 2017. “Великая октябрьская сексуальная революция [The Great October Sexual Revolution].” Russian Folk Line, August 20, 2017,http://ruskline.ru/opp/2017/avgust/21/velikaya_oktyabrskaya_seksualnaya_revolyuciya/. This and other sources draw on the work of former Menshevik Aleksandra Kollontai.

[11] Như trên

[12] Như trên

[13] Như trên

[14] Như trên

[15] Наталья Короткая,“Эрос революции: “Комсомолка, не будь мещанкой – помоги мужчине снять напряжение!”https://lady.tut.by/news/sex/319720.html?crnd=68249.

[16] Paul Kengor, Takedown: From Communists to Progressives, How the Left Has Sabotaged Family and Marriage (WND Books, 2015), 54.

[17] Xem Melnichenko (2017).

[18] Xia Hou, “The Promiscuous Gene of Communism: Sexual Liberation,” The Epoch Times (Chinese edition). April 9, 2017,http://www.epochtimes.com/gb/17/4/9/n9018949.htm; The Weekly Review, Volumes 4-5 (National Weekly Corporation, 1921), 232, available at https://goo.gl/QY1gBc; for the incident of Red Army commander Karaseev socializing 10 girls, see Olga Greig (Ольга Грейгъ), Chapter 7 of “The Revolution of the Sexes,” or “The Secret Mission of Clara Zetkin” (Революция полов, или Тайная миссия Клары Цеткин), available at https://rutlib5.com/book/21336/p/8

[19] Clara Zetkin, “Lenin on the Women’s Question,” My Memorandum (transcribed from the Writings of V.I. Lenin, International Publishers, available athttps://www.marxists.org/archive/zetkin/1920/lenin/zetkin1.htm)

[20] Hoàng Văn Thái: “Ngôi nhà búp bê: phong trào giải phóng phụ nữ, tự do hôn nhân và cuộc cách mạng giai cấp – Tham khảo lịch sử về khu Xô viết Ngạc Dự Phòng (1922-1932)” Báo Thời đại mở cửa, số 4 năm 2013.

[21] Hoàng Văn Thái (2013), như trên

[22] Dương Ninh: “Tại sao Bát lộ quân lại mua rất nhiều thuốc chữa bệnh hoa liễu?” The Epoch Times (tiếng Trung), http://www.epochtimes.com/gb/18/1/18/n10069025.htm