Sau khi đánh bại cuộc xâm lược của nhà Tống năm 981, Đại Cồ Việt vẫn chưa yên khi phía Nam Chiêm Thành vốn có quan hệ tốt với nhà Tống vẫn luôn tìm cơ hội tiến đánh Đại Cồ Việt. Vua Lê Đại Hành đã rất kiên quyết trong việc bang giao với các nước.

Lê Đại Hành
Tranh vẽ vua Lê Đại Hành. (Tranh: Bảo tàng lịch sử quốc gia, Wikipedia, Public Domain)

Đánh bại Chiêm Thành, thị uy với nhà Tống

Sau cuộc chiến chống quân Tống thắng lợi, năm 982, vua Lê Đại Hành cử sứ giả đi Chiêm Thành nhằm giữ quan hệ hòa hảo giữa hai nước. Tuy nhiên vua Chiêm là Tỳ Mi Thuế vốn đã có quan hệ với nhà Tống, liền bắt giữ sứ giả và sẵn sàng tuyên chiến với Đại Cồ Việt.

Vua Lê Đại Hành quyết định thân chinh đưa binh tiến đánh Chiêm Thành. Trước khi lên đường, nhà vua vẫn cẩn thẩn hỏi thiền sư Vạn Hạnh xem có nên xuất binh không, thiền sư trả lời rằng đây là cơ hội tốt đừng để vuột mất.

Vua tiến binh sang Chiêm Thành, vua Chiêm chống lại, chiến trận diễn ra ở vùng Bình Trị Thiên ngày nay. Kết quả là vua Chiêm bị chém ngay giữa trận tiền, quân Chiêm thua to, quân Việt đánh chiếm được kinh thành. Từ đó Chiêm Thành quy thuận Đại Cồ Việt.

Vua Lê Đại Hành dâng một số lễ vật lấy ở Chiêm Thành cho hoàng đế nhà Tống để thị uy, động thái ngoại giao này khiến nhà Tống rất e ngại Đại Cồ Việt.

Thiên ngoại hữu thiên

Năm 987, Tống Thái Tông cử Lý Giác là một người rất sành thơ đi sứ Giao Châu. Vua Lê Đại Hành hay tin liền cử thiền sư Đỗ Pháp Thuận làm người lái đò đến đón sứ nhà Tống.

Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại câu chuyện đặc biệt về Lý Giác và thiền sư. Số là khi thuyền đang đi trên sông Kinh Thầy (thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay) thấy có đôi con ngỗng bơi trên măt nước, Lý Giác nổi hứng liền ngâm hai câu thơ sau:

Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha.

Dịch là:

Ngỗng ngỗng hai con ngỗng,
Ngữa mặt nhìn chân trời.

Thiền sư Pháp Thuận đang chèo thuyền liền ứng khẩu như sau:

Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bãi thanh ba.

Dịch là:

Nước lục phô lông trắng,
Chèo hồng sóng xanh bơi

Thấy một người lái đò cũng biết làm thơ, Lý Giác cảm thấy khâm phục, về đến sứ quán liền làm một bài thơ như sau:

Hạnh ngộ minh thì tán thịnh du,
Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu.
Đông Đô lưỡng biệt tâm vưu luyến,
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch,
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu.
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu,
Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.

Có nghĩa là:

May gặp thời bình được giúp mưu,
Một mình hai lược sứ Giao Châu.
Đông Đô mấy độ còn lưu luyến,
Nam Việt nghìn trùng vẫn ước cầu.
Ngựa vượt khói mây xuyên đá chởm,
Xe qua rừng biếc vượt dòng sâu.
Ngoài trời lại có trời soi nữa,
Sóng lặng khe đầm bóng nguyệt thâu

Trong đó “Ngoài trời lại có trời soi nữa” lấy ý thiên ngoại hữu thiên, nhân ngoại hữu nhân, có ý khen nhân tài và đất nước Đại Cồ Việt. Thiền sư Đỗ Thuận chép lại bài thơ này rồi về dâng tặng vua Lê Đại Hành. Vua xem thì rất hài lòng, bèn sai Khuông Việt làm một bài thơ tiễn sứ nhà Tống về nước, tạm dịch như sau:

Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
Dao vọng thần tiên phục đế hương
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang,
Cửu thiên quy lộ trường.
Tình thảm thiết.
Đối ly trường,
Phan luyến sử tinh lang.
Nguyện tương thâm ý vị biên cương,
Phân minh tấu ngã hoàng

Dịch là:

Nắng tươi gió thuận cánh buồm giương,
Thần tiên lại đế hương.
Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương,
Về trời xa đường trường.
Tình thắm thiết,
Chén lên đường,
Vin xe sứ vấn vương.
Xin đem thâm ý vì Nam cương,
Tâu vua tôi tỏ tường

Năm ấy Đại Cồ Việt được mùa to.

Đánh Tống bình Chiêm

Theo Tống sử năm 990, vua Lê Đại Hành cho quân tiến đánh châu Đại Lý của Chiêm Thành, bắt được nhiều tù binh và tịch thu của cải. Cũng năm này hoàng đế nhà Tống cho sứ đến phong cho vua Lê hai chữ “đặc tiến”, thế nhưng khi sứ nhà Tống còn chưa sang, vua Lê Đại Hành đã cho 9 chiến thuyền cùng 300 quân qua tận đất Tống ở Liên Châu (Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) để đón sứ, dùng quân để tỏ rõ uy danh Đại Cồ Việt khiến sứ nhà Tống phải dè chừng.

Khi đến kinh đô Hoa Lư, vua Lê bố trí sẵn đại quân trang phục chỉnh tề, gươm giáo sáng loáng tập trận tên các sườn núi, trống trận nổi lên sĩ khí reo hò dậy đất; phía dưới sông nhiều chiến thuyền với tinh kỳ bay rợp trời đất, khiến sứ thần nhà Tổng cả sợ.

Theo quy định thì vua Lê Đại Hành phải quỳ xuống khi nhận sắc phong của thiên triều, thế nhưng nhà vua nhất quyết không quỳ và giải thích rằng “đích thân đánh giặc Mán, ngã ngựa đau chân nên không quỳ được”. Sứ nhà Tống không làm gì được, lại đã tận mắt thấy binh lực hùng hậu của Đại Cồ Việt nên bỏ qua.

Vua Lê dùng đại tiệc tiếp đãi sứ giả và cho xem màn biểu diễn binh lính đánh hổ, nhằm cho sứ giả thấy sức mạnh binh sĩ.

Vua Lê Đại Hành: Thiên ngoại hữu thiên
Đền thờ vua Lê Đại Hành. (Ảnh: Nguyễn Thanh Quang, Wikipedia, CC BY-SA 3.0)

Các năm 995, 997, Chiên Thành cho quân tiến đánh Đại Cồ Việt, chiến trận xảy ra ở biên giới, lần nào Chiêm Thành cũng bị bại trận phải rút trở về.

Để khẳng định thế mạnh của Đại Cồ Việt, vua Lê Đại Hành cũng cho quân tiến đánh nhà Tống. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép rằng, năm 996, hơn 100 chiến thuyền Đại Cồ Việt tiến đánh trấn Châu Hồng (Khâm Châu) của nhà Tống. Tống Thái Tông được tin không những làm lơ mà còn sai sứ giả là Lý Nhược Chiếu mang chiếu thư và đai ngọc sang ban cho vua Lê.

Khi sử giả đến, vua Lê Đại Hành nói thẳng thừng rằng: “Việc cướp trấn Như Hồng là do bọn giặc biển ở ngoài, Hoàng đế có biết đó không phải là quân của Giao Châu không? Nếu Giao Châu có làm phản thì đầu tiên đánh vào Phiên Ngung, thứ đến đánh Mân Việt, há chỉ dừng ở trấn Như Hồng mà thôi đâu”.

Phiên Ngung là địa danh thuộc tỉnh Quảng Châu, còn Mân Việt là tỉnh Phúc Kiến ngày nay. Vua Lê nhắc nhở nhà Tống rằng những vùng đất đó đều là của người Bách Việt có được thời xưa.

Khi quan tướng nước Tống quấy nhiễu ở biên giới với Đại Cồ Việt vào năm 997, chính hoàng đế nhà Tống đã xử tội những người này.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép sự việc này như sau: “Nhà Tống xử tội bọn Trương Quan, Quan đã ốm chết, chém Vệ Chiêu Mỹ ở trấn Như Hồng”.

Xây dựng giao thông đường thủy

Sử Việt cũng ghi nhận vua Lê Đại Hành là vị vua đầu tiên tổ chức đào sông nhằm mở mang giao thông đường thủy. Năm 980, để thuận tiện giao thông vào phương Nam, vua đã cho đào lại khúc sông nối sông Đáy và sông Hát.

Năm 984, vua sai vét các kênh từ núi Đồng Cổ (Yên Định, Thanh Hóa) đến sông Bà Hòa (Tĩnh Gia, Thanh Hóa).

Năm 992, vua cho đắp đường bộ từ cửa biển Nam Giới (cửa Sót thuộc huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) đến châu Địa Lý (nay thuộc tỉnh Quảng Bình).

Năm 1003, vua cho đào kênh Đa Cái (Hưng Nguyên, Nghệ An) đến thẳng Tư Củng Trường ở Ái Châu.

Năm 1003, Đại Cồ Việt hoàn tất con đưởng thủy dài 250 km được bắt đầu từ năm 982, chạy đến vùng cực Nam hết vùng đất Diễn Châu.

Những công trình này không chỉ giúp thông thương buôn bán, vận chuyển hàng hóa, mà còn giúp quân đội dễ dàng hơn trong các cuộc tiến binh đánh Chiêm Thành.

Tháng 3/1005, vua Lê Đại Hành mất ở điện Trường xuân. Nhận định về Lê Đại Hành, cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép nhận định của Lê Văn Hưu:

Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn.

Còn sử gia Ngô Sĩ Liên thì nhận định rằng:

Vua đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bật anh hùng nhất đời vậy. Song trong khi làm nhiếp chính mà tự xưng là Phó Vương, dẫn đến việc bọn Điền, Bặc phải khởi binh, lên ngôi vua thì phải nhờ bọn Cự Lạng đem binh đến uy hiếp, làm cung điện thì lấy vàng, bạc mà trang sức. Phàm những việc như thế thì không bằng Lý Thái Tổ biết nghĩ xa hơn. Văn Hưu nói lấy đức của nhà Lý mà soi đức của nhà Lê thì [đức của Lý] dày hơn, há chẳng đúng sao!

(Hết)

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video: