Theo báo cáo gần đây của UBND TP.HCM gửi Bộ Xây dựng, số dự án nhà ở thương mại đang triển khai là 124, quy mô hơn 58.140 căn. Trong khi đó, số dự án nhà ở xã hội đang thực hiện chỉ có 5 dự án, với quy mô 3.367 căn, bằng 1/17 (5,8%)  so với lượng căn nhà ở thương mại. Điều bất cập này khiến người lao động trung bình ước tính đi làm 57 năm mới mua được 1 căn hộ trong bối cảnh giá bất động sản liên tục leo thang.

bat dong san chung cu bat dong san tp.hcm can ho thi truong 485182672
Bất động sản bị “thổi giá” liên tục, phân khúc bình dân cho người lao động trung bình gần như không còn tại TP.HCM. (Ảnh minh họa: Tuleyhcm/Shutterstock)

Cụ thể, theo thống kê trong báo cáo của UBND TP.HCM, số dự án nhà ở thương mại đang triển khai tại thành phố này là 124, với quy mô 58.141 căn; số dự án hình thành trong tương lai, đã đủ điều kiện bán trong năm qua là 21 dự án, với 10.780 căn.

Với giá cả của phân khúc nhà ở thương mại leo thang chưa có điểm dừng, người đi làm ở TP.HCM khó có thể sở hữu một căn hộ cho riêng mình. Anh Nguyễn Thanh Cường (34 tuổi) hoàn tất mua căn hộ chung cư tại dự án Flora Fuji (do Tập đoàn Bất động sản Nam Long làm chủ đầu tư). Căn hộ 2 phòng ngủ, diện tích 65 m2, được giao dịch với giá 2,5 tỷ đồng, báo Việt Nam Net đưa tin.

Số tiền trên anh Cường vay mượn từ nhiều người thân, cá nhân anh không thể đủ để tự mua nhà, còn lựa chọn vay ngân hàng khá áp lực bởi lãi suất ở mức cao. “Lương trung bình 15 triệu đồng/tháng, theo tính toán tôi phải mất 166 tháng, tương đương khoảng 14 năm nhịn ăn uống, sinh hoạt, mới có cơ hội sở hữu nhà”, anh Cường nói.

Căn hộ của anh Cường cách Quận 1, trung tâm TP.HCM tới 30 phút đi xe, nhưng vẫn được nhiều gia đình lựa chọn bởi mức giá “dễ chịu đựng” hơn so với các chung cư khác, giá trung bình hiện từ 3 – 5 tỷ đồng/căn.

Cách chung cư Flora Fuji khoảng 1km, dự án The Global City (TP. Thủ Đức) của chủ đầu tư Masterise Homes có các sản phẩm nhà phố – biệt thự – shophouse giá 33 – 50 tỷ đồng/sản phẩm.

Trong khi đó, số dự án nhà ở xã hội đang triển khai tại TP.HCM chỉ có 5 dự án với 3.367 căn, bằng 1/17 lần so với nhà ở thương mại; không có dự án nhà ở xã hội nào hình thành trong tương lai, đủ điều kiện bán trong năm 2022, số căn nhà ở xã hội bằng 0. Dự án nhà ở công nhân cũng không có.

Cơ cấu sản phẩm bất động sản ở TP.HCM mất cân đối và không đảm bảo an sinh xã hội. Theo nhu cầu thực tế, thường tỷ lệ phân khúc căn hộ bình dân chiếm tỷ lệ cao nhất nhưng thời gian qua, tỷ lệ căn hộ bình dân không có trên thị trường, chiếm tỷ lệ 0%; phân khúc căn hộ trung cấp tăng từ 26% lên 30% và phân khúc căn hộ cao cấp giảm từ 74% xuống 70%, nhưng vẫn ở mức cao.

“Theo công thức chuẩn của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thời điểm 4 năm trước, người dân Việt Nam cần 35 năm để mua được một căn hộ. Hiện tại, con số này ở mức 57 năm. Tại Trung Quốc, người dân cần 34 năm”. TS. Lê Xuân Nghĩa cho biết, tạp chí Nhịp sống Kinh tế dẫn lời.

Ông Nghĩa cho rằng cần giải quyết tình trạng giá bất động sản Việt Nam ở mức quá cao, trong khi số lượng dự án được cấp phép mới ít. Nguồn vốn cho thị trường bất động sản phải hướng đến phân khúc nhà ở vừa túi tiền, cho người có thu nhập trung bình trở xuống. Nếu không giải quyết được nhu cầu cho đại bộ phận người dân thông qua thị trường bất động sản thì nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng đình đốn dài hạn.

Trong khi đó, TS. Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TP.HCM lưu ý việc đánh giá dự án cho vay cần xem xét kỹ và chỉ nên hỗ trợ các dự án thật, dự án nhà ở xã hội để phục vụ nhu cầu chính đáng được sở hữu nhà của người dân. Nên hạn chế, kiểm soát chặt các phân khúc bất động sản cao cấp hay đầu cơ, dành vốn phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.

“Ngân hàng Nhà nước cần thanh tra, kiểm soát đối với hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại. Hạn chế việc ngân hàng thương mại tìm cách lách quy định để tài trợ cho các dự án bất động sản đầu cơ, hay lách từ việc cho vay tiêu dùng để dùng tiền đó đầu tư bất động sản”, ông Huân kiến nghị.

Đức Minh