Bà Kamala Harris, ứng viên cho chiếc ghế phó Tổng thống, đã từng đưa ra những chính sách thuế táo bạo trong vòng chạy đua sơ bộ. Chính sách do bà đề xuất tuy có hơi khác với chính sách của ông Biden, nhưng cũng trùng lặp ở một vài điểm. Hơn nữa, giả định như nếu 2 người được tuyên bố chiến thắng, khả năng người điều khiển thực sự sẽ không hoàn toàn nằm trong tay ông Biden khi ông đã cao tuổi và có nhiều vấn đề về trí lực. Vì vậy, rất đáng để chúng ta nhìn lại những chính sách do Thượng Nghị sĩ thuộc phe cực tả của đảng Dân chủ đề xuất.

123950325 10219011643029421 7344281856728082722 o
Chính sách kinh tế đề xuất bởi bà Kamala Harris

Bà Harris đã đề nghị nhiều thay đổi cho bộ luật thuế hiện hành, bao gồm những điểm chủ yếu như:

  • Tăng thuế thu nhập đối với 1% những người có thu nhập cao nhất từ 37% lên 39,6%.
  • Nâng mức thuế thu nhập doanh nghiệp 21% lên tới 35%.
  • Tăng thuế bất động sản để bù đắp việc tăng lương cho giáo viên.
  • Thực hiện “phí bảo hiểm dựa trên thu nhập” 4% đối với các hộ gia đình kiếm được hơn 100.000 đôla hàng năm để chi cho phiên bản “chăm sóc y tế toàn dân” Medicare.
  • Đánh thuế giao dịch tài chính (FTT) đối với giao dịch cổ phiếu ở mức 0,2%, giao dịch trái phiếu 0,1% và các giao dịch phái sinh 0,002%.
  • Nâng thuế suất thu nhập vốn tương đương mức thu nhập thông thường.

Nhiều chi tiết trong các kế hoạch của bà Harris còn thiếu cụ thể. Tuy nhiên, có một số ý tưởng chính sách tương đồng so với ông Biden, trong đó cả hai đều nhất trí:

  • Tăng mức thuế thu nhập trên 1% người có thu nhập cao nhất từ 37% lên 39,6%
  • Tăng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (ông Biden chỉ đề xuất tăng từ 21% lên 28%)
  • Đánh thuế lãi trên vốn và cổ tức theo tỷ lệ thuế thu nhập thông thường.
  • Tăng tín dụng thuế hoàn lại đối với các cá nhân.
  • Cả hai đồng thuận với việc người dân phải trả phí carbon. 

Nhìn chung, cả ông Biden và bà Haris đều ủng hộ việc tăng thuế đối với doanh nghiệp và cá nhân có thu nhập cao. Thêm vào đó, cả hai tán thành đánh thuế thu nhập đầu tư (ví dụ, lãi vốn và cổ tức) ở mức thu nhập thông thường đối với những người có thu nhập cao nhất định và tăng giá trị các tín dụng hoàn lại cho các cá nhân và doanh nghiệp đang phải đối mặt với gánh nặng thuế suất cận biên đã tăng.

Liên quan đến chính sách về kinh tế, ông Biden còn muốn tăng lương tối thiểu lên 15 USD/giờ. Đồng thời, ông còn có ý định hỗ trợ những người nhập cư trái phép trở thành công dân Mỹ và coi những người nhập cư không có giấy tờ hay tiền án “không nên là trọng tâm của việc trục xuất.”

>> Ông Biden muốn tăng lương theo giờ, 2 triệu lao động có thể mất việc

Nhìn vào các kế hoạch tăng thuế “khủng” ở trên, có thể thấy bộ đôi Biden – Harris đang quyết tâm thực hiện chủ trương “lấy của người giàu chia cho người nghèo”, gồm lượng lớn những người nhập cư bất hợp pháp. Đây vốn là cách thức hữu dụng của đảng Dân chủ trong việc thu hút phiếu bầu của nhóm người này. Đã có nhiều phân tích chỉ ra rằng việc trợ cấp nhiều chỉ góp phần tạo ra sự ỷ lại và lười biếng.

Tăng lương tối thiểu cộng với tăng thuế thu nhập doanh nghiệp cao sẽ khiến tình trạng thất nghiệp tăng cao trở lại, do các doanh nghiệp phải cắt giảm nhân công để cân đối chi phí. Giá cả hàng hoá cũng sẽ cao hơn, ảnh hưởng đến túi tiền của mọi người dân và làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá Mỹ trên thị trường. Ngoài ra, điều này còn ảnh hưởng đến việc kêu gọi các công ty trở về Mỹ sản xuất. 

Theo Tiến sĩ Michael Busler thuộc Đại học Stockton, tăng lương tối thiểu theo giờ không tốt cho người tiêu dùng: Họ sẽ phải đối mặt với việc tăng giá. Điều này không tốt cho các công ty và doanh nghiệp: Chi phí lao động sẽ tăng cao. Nó cũng không tốt cho hầu hết người lao động: 2 triệu người lao động sẽ mất việc làm. Đối với những người lao động phổ thông đang giữ mức lương tối thiểu, cách tiếp cận này sẽ không có lợi cho họ về lâu về dài, bởi việc buộc phải nâng mức lương sẽ làm giảm động lực tìm kiếm kỹ năng mới của họ.

Việc bộ đôi này đề xuất sẽ triệt tiêu fracking và giảm phát thải CO2 về 0% năm 2035 cũng sẽ loại bỏ 10,3 triệu việc làm trên khắp nước Mỹ, theo một nghiên cứu của Viện Luật và Tự do bang Wisconsin.

Nhiều người Mỹ ghét bỏ TT Trump vì những lý do cảm tính thật sự đã trở nên cực đoan, bởi các con số về tăng trưởng, việc làm dưới chính quyền của ông Trump đã chứng minh được hiệu quả trong việc ông điều hành đất nước bằng các chính sách giảm thuế, tinh giản các thủ tục và rào cản. 

Lê Xuân

Xem thêm: