Theo phiên bản thứ 5 Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 do Bộ Y tế Việt Nam cập nhật, virus Vũ Hán (nCoV) đã liên tục biến đổi tạo ra hàng nghìn biến thể khác nhau trên toàn thế giới, làm tăng khả năng lây lan mạnh hơn và khó kiểm soát hơn. Bệnh nhân diễn biến nặng, nguy kịch sẽ bị thở nhanh, khó thở, tím tái…, sốc nhiễm trùng, tổn thương thận và tổn thương cơ tim, dẫn đến tử vong.

COVID 19 bien the
Cảnh hoang tàn trong khu lò hỏa táng tại Hindu Moksha Dham ở TP Beawar, bang Rajasthan, Ấn Độ, ngày 23/4/2021. (Ảnh: Sumit Saraswat/Shutterstock)

Phiên bản thứ 5 Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 (viêm phổi Vũ Hán) được đưa ra trong bối cảnh tình hình virus Vũ Hán liên tục biến đổi, dịch bệnh bùng phát căng thẳng hàng loạt tại nhiều nước châu Á với nhiều biến thể nguy hiểm, như biến thể kép B.1.617 ở Ấn Độ.

Đây là phiên bản thứ 5 của Hướng dẫn chẩn đoán điều trị, dựa trên những bài học kinh nghiệm thực tế điều trị ở Việt Nam, cập nhật hướng dẫn mới nhất, cập nhật của WHO, CDC và Hội đồng Châu Âu...” – GS.TS Nguyễn Văn Kính, Chủ tịch Hội đồng chuyên môn điều trị COVID- 19, cho biết vào sáng 28/4.

Bộ Y tế tiếp tục khẳng định virus nCoV lây trực tiếp từ người sang người chủ yếu qua giọt bắn đường hô hấp, qua đường tiếp xúc và cũng có khả năng lây truyền qua đường khí dung (aerosol), đặc biệt tại các cơ sở y tế, những nơi đông người và ở không gian kín [hiểu theo cách phổ thông là qua đường hô hấp]. Hiện chưa có nghiên cứu về việc virus này lây truyền qua thực phẩm.

Càng tụ tập đông người, càng lễ hội đông người thì càng dễ lây nhiễm COVID-19. Bài học ở Ấn Độ rất rõ, số người mắc, số người tử vong rất nhanh“, ông Kính nói.

Hiện virus này đã liên tục biến đổi tạo ra hàng nghìn biến thể khác nhau trên toàn thế giới, làm cho khả năng lây lan mạnh hơn và khó kiểm soát hơn. Vì bệnh này chưa có thuốc đặc hiệu nên chủ yếu điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng.

Triệu chứng phát bệnh khác nhau, một số trường hợp không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng

Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, thời gian ủ bệnh của COVID-19 từ 2-14 ngày, trung bình từ 5-7 ngày. Triệu chứng khởi phát hay gặp là sốt, ho khan, mệt mỏi và đau cơ. Một số trường hợp đau họng, nghẹt mũi, chảy nước mũi, đau đầu, ho có đờm, nôn và tiêu chảy.

Hầu hết người bệnh (khoảng hơn 80%) chỉ sốt nhẹ, ho, mệt mỏi, không bị viêm phổi và thường tự hồi phục sau khoảng một tuần. Tuy nhiên, một số trường hợp không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng.

Có khoảng gần 20% bệnh nhân có tiến triển nặng. Thời gian trung bình từ khi có triệu chứng ban đầu tới khi diễn biến nặng thường khoảng 7-8 ngày.

Các biểu hiện nặng bao gồm: Viêm phổi, viêm phổi nặng cần nhập viện… Trong đó khoảng 5% cần điều trị tại các đơn vị hồi sức tích cực với các biểu hiện hô hấp cấp, như: Thở nhanh, khó thở, tím tái…, hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS), sốc nhiễm trùng, suy chức năng các cơ quan bao gồm tổn thương thận và tổn thương cơ tim, dẫn đến tử vong.

Bộ Y tế Việt Nam nhận định tỷ lệ tử vong bởi COVID-19 cao hơn ở người cao tuổi, người suy giảm miễn dịch và mắc các bệnh mạn tính kèm theo.

Đối với người lớn, các yếu tố tiên lượng tăng nguy cơ tử vong là tuổi cao, điểm suy đa tạng (SOFA) cao khi nhập viện…

Đối với trẻ em, đa số trẻ mắc COVID-19 có các biểu hiện lâm sàng nhẹ hơn người lớn, hoặc không có triệu chứng. Các dấu hiệu thường gặp ở trẻ em là sốt và ho hoặc các biểu hiện viêm phổi. Tuy nhiên, một số trẻ mắc COVID-19 có tổn thương viêm đa cơ quan, như: sốt; ban đỏ hoặc xung huyết giác mạc, hoặc phù nề niêm mạc miệng, bàn tay, chân; suy tuần hoàn; các biểu hiện tổn thương chức năng tim và tăng men tim; rối loạn tiêu hóa; rối loạn đông máu và tăng các chỉ số viêm cấp.

Cảnh báo: Philippines có thể bị “vỡ trận” như Ấn Độ

Các mức độ nghiêm trọng của bệnh

Theo Bộ Y tế, nguyên tắc điều trị chung là phân loại người bệnh và xác định nơi điều trị theo các mức độ nghiêm trọng của bệnh.

Trong đó, ca bệnh nhẹ (viêm đường hô hấp trên, viêm phổi nhẹ) sẽ được điều trị tại các khoa, phòng thông thường. Ca bệnh nặng (viêm phổi nặng, nhiễm trùng huyết) hoặc ca bệnh nhẹ ở người có các bệnh mạn tính hay người cao tuổi cần được điều trị tại các phòng cấp cứu của các khoa, phòng hoặc hồi sức tích cực.

Các mức độ nghiêm trọng của bệnh viêm phổi Vũ Hán như sau:

Không triệu chứng: là người nhiễm nCoV được khẳng định bằng xét nghiệm realtime RT-PCR dương tính, nhưng không có triệu chứng lâm sàng.

Mức độ nhẹ: Viêm đường hô hấp trên cấp tính

– Có các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu như như sốt, ho khan, đau họng, nghẹt mũi, mệt mỏi, đau đầu, đau mỏi cơ.

– Không có các dấu hiệu của viêm phổi hoặc thiếu oxy.

Mức độ vừa: Viêm phổi

– Người lớn và trẻ lớn: bị viêm phổi (sốt, ho, khó thở, thở nhanh) và không có dấu hiệu viêm phổi nặng, SpO2 ≥ 93% khi thở khí trời.

– Trẻ nhỏ: trẻ có ho hoặc khó thở và thở nhanh. Thở nhanh được xác định khi nhịp thở ≥ 60 lần/phút ở trẻ dưới 2 tháng; ≥ 50 lần/phút ở trẻ từ 2-11 tháng; ≥ 40 lần/phút ở trẻ từ 1 – 5 tuổi) và không có các dấu hiệu của viêm phổi nặng.

– Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, tuy nhiên , hình ảnh X-quang, siêu âm hoặc CT phổi thấy hình ảnh viêm phổi kẽ hoặc phát hiện các biến chứng.

Mức độ nặng- Viêm phổi nặng

– Người lớn và trẻ lớn: sốt hoặc nghi ngờ nhiễm trùng hô hấp, kèm theo bất kỳ một dấu hiệu sau: nhịp thở > 30 lần/phút, khó thở nặng, hoặc SpO2 < 93% khi thở khí phòng.

– Trẻ nhỏ: ho hoặc khó thở, và có ít nhất một trong các dấu hiệu sau đây: tím tái hoặc SpO2 < 93%; suy hô hấp nặng (thở rên, rút lõm lồng ngực); Hoặc trẻ được chẩn đoán viêm phổi và có bất kỳ dấu hiệu nặng sau: không thể uống/bú được; rối loạn ý thức (li bì hoặc hôn mê); co giật. Có thể có các dấu hiệu khác của viêm phổi như rút lõm lồng ngực, thở nhanh (tần số thở/phút như trên).

– Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, chụp X-quang phổi để xác định các biến chứng.

Mức độ nguy kịch gồm: Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS); Nhiễm trùng huyết (sepsis); Sốc nhiễm trùng; Các biến chứng nặng- nguy kịch khác: nhồi máu phổi, đột quỵ, sảng.

Bộ Y tế lưu ý rõ cần theo dõi sát và áp dụng các biện pháp chẩn đoán xác định khi nghi ngờ và có biện pháp điều trị phù hợp.

Người bệnh chỉ được xuất viện khi có đủ các tiêu chuẩn gồm: hết sốt, các triệu chứng lâm sàng cải thiện, toàn trạng tốt, các dấu hiệu sinh tồn ổn định, chức năng các cơ quan bình thường, xét nghiệm máu trở về bình thường, X-quang phổi cải thiện. Sau khi xuất viện cần cách ly tại nhà thêm 14 ngày, xét nghiệm COVID-19 2 lần (vào ngày thứ 7 và thứ 14); theo dõi thân nhiệt 2 lần/ngày, nếu thân nhiệt cao hơn 38°C ở hai lần đo liên tiếp hoặc có các dấu hiệu bất thường khác phải đến khám lại ngay tại các cơ sở y tế.

Người tái dương tính tiếp tục cách ly tại nhà 7 ngày, đến ngày thứ 7 tiếp tục xét nghiệm.

Nguyễn Sơn

Xem thêm:

Chúng ta biết gì về biến thể COVID-19 ở Ấn Độ?