Trải qua 5000 năm lịch sử, các triều đại của Trung Hoa nối tiếp nhau ra đời và bị diệt vong. Không giống nước Việt ta, vốn có quốc hiệu khá ổn định và không thay đổi quá nhiều về ý nghĩa, mỗi một triều đại Trung Hoa ra đời đều có một quốc hiệu riêng biệt. Khái niệm này cũng không giống như ở ta, khi họ Lý lên nắm quyền thì gọi là “nhà Lý” với quốc hiệu Đại Việt. Danh xưng của các triều đại Trung Hoa lại có nhiều nguồn gốc khác nhau.

Danh xưng của mỗi triều đại Trung Hoa là do yếu tố nào quyết định? Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Nó có thể bắt nguồn từ danh xưng của bộ tộc, cũng có thể từ tên địa danh. Phong hiệu hoặc tước vị của người sáng lập cũng là một nguồn gốc. Ngoài ra còn có nguồn từ tên gọi ban đầu của vùng đất, quan hệ tông tộc hay hàm ý cát tường, v.v..

Thử tìm hiểu về nguồn gốc quốc hiệu các triều đại Trung Hoa
(Tranh minh họa: Giuseppe Castiglione, Wikipedia, Public Domain)

Có rất nhiều điều thú vị trong việc sử dụng quốc hiệu, ví như có rất nhiều quân vương mặc dù diệt triều đại đi trước, nhưng lại sử dụng tên hiệu do triều đại đi trước đặt cho làm quốc hiệu của mình.

1. Nhà Hạ: Theo truyền thuyết, vua Vũ từng được thụ phong ở Hạ Bá, vì thế gọi là nhà “Hạ”. Có một truyền thuyết khác là sau khi con của vua Vũ là Khải dời về vùng đất Đại Hạ thì triều đại này mới xưng là “Hạ”.

2. Nhà Thương: Tương truyền thuỷ tổ nhà Thương là ông Khế từng có công giúp vua Vũ trị thuỷ nên được thụ phong ở đất Thương, về sau lấy “Thương” để gọi bộ lạc của mình. Vua Thang sau khi diệt nhà Hạ đã lấy “Thương” làm quốc hiệu. Về sau, Bàn Canh dời đến đất Ân nên triều đại này cũng gọi là “Ân” hoặc “Ân Thương”.

3. Nhà Chu: Bộ lạc Chu đến thời Cổ Công Đản Phủ dời đến vùng đất Chu. Vũ Vương sau khi diệt nhà Ân đã lấy “Chu” làm tên hiệu của triều đại.

4. Nhà Tần: Theo ghi chép trong cuốn “Sử Ký” thì Tần vốn là một bộ lạc thời cổ. Thủ lĩnh Phi Tử vì có công nuôi ngựa cho Chu Hiếu Vương nên được Chu Hiếu Vương ban cho họ “Doanh”, đồng thời tặng cho một vùng đất. Sau này, ông lại có công cứu nhà Chu nên được phong làm chư hầu. Khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất 6 nước thì bắt đầu xây dựng nước Tần.

5. Nhà Hán: Hạng Vũ phong Lưu Bang làm Hán Vương. Sau khi Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ, thống nhất Trung Nguyên, đã đặt quốc hiệu là “Hán”. Thời kỳ đầu, nhà Hán đóng đô ở Trường An, về sau đóng đô ở Lạc Dương, cho nên nếu xét về đô thành mà nói sẽ có “Tây Hán” “Đông Hán”.

6. Nhà Ngụy: Hán Hiến Đế từng phong Tào Tháo là Nguỵ Công, Nguỵ Vương. Sau khi Tào Phi thay nhà Hán đã xưng là nhà “Nguỵ”. Vì hoàng thất họ Tào nên trong lịch sử cũng gọi là “Tào Nguỵ”.

7. Nhà Thục: Lưu Bị lập quốc tại Tứ Xuyên. Thục là chỉ Tứ Xuyên. Trong lịch sử cũng gọi là “Thục Hán”. “Hán” ở đây là chỉ kế tục nhà Đông Hán, vì Lưu Bị luôn sử dụng danh nghĩa khôi phục nhà Hán.

8. Nhà Ngô: Tôn Quyền hoạt động ở khu vực hạ du Trường Giang. Trong lịch sử nơi đây từng có nước Ngô. Tào Nguỵ từng phong cho Tôn Quyền là “Ngô Vương”, cho nên sử gọi là “Tôn Ngô”, cũng nhân vì ở phía đông nên còn được gọi là “Đông Ngô”.

9. Nhà Tấn: Tư Mã Chiêu ép Nguỵ đế phong cho mình là “Tấn Công”. Sau khi diệt nhà Thục ông lại được phong là “Tấn Vương”. Về sau, Tư Mã Viêm kế thừa tước vị, ép Nguỵ đế thoái vị, tự lập làm hoàng đế, đặt tên nước là “Tấn”.

10. Nhà Tùy: Cha của Tùy Văn Đế Dương Kiên là Dương Trung từng được nhà Bắc Chu phong là “Tùy Quốc Công”. Tuỳ Văn Đế kế tục trước đó nên gọi là “Tùy” (隨). Tuy nhiên Tùy Văn Đế sau này đã sử dụng một chữ “Tùy” (隋) đồng âm cho quốc hiệu, vì ông cho rằng chữ “Tùy” trước đó có hàm ý không tốt đẹp.

11. Nhà Đường: Ông nội của Đường Cao Tổ Lý Uyên là Lý Hổ, vì có công giúp nhà Chu nên được phong là Đường Quốc Công, tước vị truyền đến Lý Uyên. Sau khi khởi binh ở Thái Nguyên, Lý Uyên xưng là “Đường Vương”, sau khi phế Dương Hựu thì lập ra triều Đường.

12. Nhà Liêu: Liêu vốn xưng là Khiết Đan, sau đổi thành “Liêu” vì họ vốn cư trú ở thượng du sông Liêu.

13. Nhà Tống: Sau khi Cung Đế nhà hậu Chu kế vị đã sai Triệu Khuông Dận làm Tiết độ sứ ở Quy Đức, Tống Châu. Sau vụ binh biến Trần Kiều, do phát tích tại Tống Châu nên triều đại này đặt quốc hiệu là “Tống”.

14. Nhà Tây Hạ: Thác Bạt Tư Cung chiếm cứ Hạ Châu, nên khi lập quốc lấy Hạ Châu làm tên, xưng là “Đại Hạ”. Bởi vì ở phía Tây nên người Tống gọi là “Tây Hạ”.

15. Nhà Kim: Đô thành nhà Kim là Hội Ninh, bên sông Án Xuất Hổ. Tương truyền rằng sông này sản sinh ra vàng (kim). Chữ “Kim” này đọc theo tiếng Nữ Chân là “Án Xuất Hổ”.

16. Nhà Nguyên: Theo ghi chép trong “Nguyên sử” thì tên gọi “Nguyên” là do Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đặt. Ông lấy từ chữ “Nguyên” ở câu “Đại tai càn nguyên” của Kinh Dịch, có ý nghĩa là lớn, là đầu tiên.

17. Nhà Minh: Chu Nguyên Chương từng tiếp xúc rất thân cận với Bạch Liên giáo. Trong dân gian giáo phái này còn được xưng là “Quang minh giáo” với câu nói: “Hắc ám tức tương quá khứ, quang minh tương yếu đáo lai”, ý nói, tối tăm sắp qua, ánh sáng sắp đến. Vì vậy sau khi lên ngôi, Chu Nguyên Chương đặt quốc hiệu là “Minh”.

18. Nhà Thanh: Thời Bắc Tống, tộc Nữ Chân xây dựng nước Kim. Vào thời Tống, người Nữ Chân bị quản chế bởi người Khiết Đan (Liêu), mà chữ “Liêu” trong tiếng Khiết Đan có nghĩa là “sắt” cho nên đặt tên nước là “Kim” (vàng) nhằm biểu thị ý nghĩa áp chế được “Liêu”. Cuối đời nhà Minh, thế lực của tộc Nữ Chân hùng mạnh trở lại, xây dựng lại nước Kim (Hậu Kim). Vì muốn mở rộng ra bên ngoài, cắt đứt quan hệ bề tôi với triều Minh, Hoàng Thái Cực đã đem “Nữ Chân” đổi thành “Mãn Châu”. Mãn tộc là một chi của tộc Nữ Chân. Còn nguyên nhân Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu từ “Kim” sang “Thanh” thì không được ghi chép lại.

Theo Vision Times tiếng Trung
An Hòa biên tập

Xem thêm:

Mời xem video: